Bạn đang xem bài viết Cuộc Chiến Chấm Dứt 45 Năm Trước Qua Cái Nhìn Của Du Học Sinh! được cập nhật mới nhất tháng 11 năm 2023 trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Từ niềm tự hào được “định hướng”
Như hết thảy trẻ em ở Việt Nam, Đình Kim được giáo dục về sự kiện 30/4/1975 là “Đại thắng mùa xuân”, ngày “Giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn đất nước”, với lòng tự hào rằng Việt Nam đã đánh bại cả “Thực dân” Pháp và “Đế Quốc” Mỹ.
Kim nói với RFA rằng anh có thói quen tra cứu mọi thông tin mình muốn tìm hiểu trên mạng Internet. Từ đó, anh phát hiện thêm nhiều sự thật khác về ngày 30/4 mà sách lịch sử giáo khoa đã không đề cập đến:
“Mình có thói quen hay đọc Wikipedia. Mình mới thấy rằng Wikipedia nói về ngày 30/4 mà tại sao lại là ngày “Quốc Hận”, “tháng Tư đen”… Khi đó mình mới bắt đầu lên Google tìm kiếm những cụm từ này thì mới ra một số trang blog kể về sự đau khổ, mất mát của những đang sống ở một nước nước khác khi người ta nhớ lại biến cố đó, thì mình mới biết rằng có một bộ phận người Việt đang ở bên nước khác là những người đã vượt biên. Sau này, khi ra nước ngoài, được đọc nhiều hơn thì mình mới thực sự thay đổi quan điểm về ngày 30/4 này.”
AFP
Minh, người chuẩn bị du học thạc sỹ ngành Nhân quyền và Chính sách công tại Thuỵ Điển cũng thay đổi quan điểm nhờ vào việc đọc nhiều hơn các tài liệu bằng tiếng Anh:
“Trước đây, học lịch sử ở trường thì em chỉ biết ngày 30/4 là ngày chính quyền miền Nam Việt Nam đầu hàng, quân đội Bắc Việt chiếm Dinh Độc lập và ngày đấy được coi là ngày thống nhất đất nước.
Sau này, khi đọc nhiều tài liệu bên ngoài hơn thì em mới biết ngày đấy không nên được hiểu là ngày “giải phóng dân tộc” hay “thống nhất đất nước” gì cả vì thực sự đã có rất rất nhiều người phải chết, phải rời bỏ tổ quốc, phải chịu “cải tạo”, bị tịch thu tài sản sau biến cố đấy.”
Vy Nguyễn, thạc sỹ chuyên ngành Quản trị kinh doanh chia sẻ cô cũng từng tự hào về lịch sử dân tộc hào hùng được giảng dạy ở nhà trường. Tuy nhiên, niềm tự hào đó cũng thay đổi kể từ khi cô đi du học và được tự do tiếp cận thông tin ở một đất nước dân chủ:
“Lúc trước được học ở trong trường ở Việt Nam thì ngày 30/4 là ngày “giải phóng hoàn toàn miền Nam”. Nói chung cũng biết bao tự hào về lịch sử dân tộc, về chuyện mình thắng Trung Quốc, chống Mỹ, chống Pháp…
Khi mình sang Đài Loan đi học, mình tiếp nhận thêm những những nguồn thông tin khác ở bên ngoài, tìm hiểu thì mình mới biết được sự thật về ngày 30/4 nó không giống như những cái gì mình được học trước đó. Mình biết được là sự thật lịch sử nó đã không được viết đúng. Người chiến thắng lúc nào cũng là người được viết nên lịch sử hết.
Ví dụ như một nước Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam Việt Nam, mà hồi xưa ở trong sách chỉ gọi là Mỹ Ngụy thôi, chứ họ không nói chính xác là một đất nước, nhưng họ có nói đến nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc.”
Cho đến thay đổi quan điểm về cuộc chiến
Theo Đình Kim, quan điểm của về cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc và ngày 30/4 có sự thay đổi theo từng giai đoạn. Từ mang trong lòng niềm tự hào, cho đến giờ, thì anh coi biến cố 30/4/1975 như là một tiến trình thay đổi thể chế ở miền Nam Việt Nam:
“Các quan điểm về sự kiện này, “tháng tư đen”, “ngày thống nhất đất nước” hay “ngày quốc hận”… nó tùy thuộc và đánh giá chủ quan tư tưởng của người suy nghĩ về nó.
Còn đối với mình thì ngày 30/4 nó cũng không hẳn là một cuộc xâm lược. Thực ra, lực lượng tiến hành ngày 30/4 này không chỉ có Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà còn có cả Mặt trận Giải Phóng ngay bên trong lòng miền Nam…
Cho nên, không hẳn là một cuộc xâm lược mà nó là một tiến trình thay đổi thể chế, thay đổi Chính phủ, tiến trình sụp đổ của một Chính phủ mà không còn được Mỹ bảo trợ. Mình cũng biết là từ năm 1973 thì Mỹ không còn bảo trợ cho miền Nam nữa.”
Chiếc xe tăng của quân đội húc đổ cánh cổng vào Dinh Độc Lâp ở Sài Gòn ngày 30/4/1975 AFP
Bạn Minh thì khẳng định luôn quan điểm của mình về cuộc chiến này là “nội chiến” chứ không phải “giải phóng dân tộc”, bởi vì rõ ràng là “người Việt đánh người Việt”:
“Biến cố 30/4 là không đơn giản là một sự kiện lịch sử, mà nó là bước ngoặt thay đổi số phận của hàng triệu con người. Sau 45 năm, hệ quả của biến cố đấy vẫn còn gây ảnh hưởng đến nhiều người đang sống ở thời điểm hiện tại. Ví dụ: việc phân biệt đối xử với con cái của những cựu binh Việt Nam Cộng Hoà…
Và cần phải thừa nhận rằng đấy là một cuộc nội chiến chứ không phải là chiến tranh giải phóng dân tộc.”
Thế hệ trẻ Việt Nam nên được giáo dục về cuộc chiến như thế nào?
Cả ba người mà chúng tôi phỏng vấn đều nhìn nhận rằng chương trình lịch sử sách giáo khoa hiện nay mà tất cả học sinh Việt Nam phải học có quá nhiều điều không khách quan, không đúng sự thật và còn nhiều điều bị che dấu về chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1954-1975.
Đình Kim nói:
“Rõ ràng, hiện tại, người thắng là người có quyền nói. Cho nên những điều mà họ đưa vào sách vở được dựng lên theo một hướng chủ quan nhất định từ phía miền Bắc. Chính vì vậy mà nó sẽ có sự không khách quan về mặt thông tin, sự kiện lịch sử, nhiều khi có những sự kiện lịch sử đã bị che lấp đi, không đưa vào sách vở.
Nó dẫn đến một sự thật đó là thế hệ trẻ Việt Nam, thậm chí là mình, khi mà được giáo dục ở trong môi trường đó thì mình cũng chỉ hiểu biết giới hạn về sự thật chủ quan một phía mà thôi.
Ví dụ đơn giản là các cách mà sách lịch sử giáo khoa Việt Nam nói về một chủ thể là “Chính quyền Mỹ Ngụy” thôi thì đó cũng đã thể hiện sự chủ quan của miền Bắc Việt Nam rồi.”
Nếu được thay đổi cách giảng dạy lịch sử cho thế hệ trẻ Việt Nam về cuộc chiến tranh này, Đình Kim nói cần phải tôn trọng sự thật lịch sử, đúng và đủ, cần xác định rõ ba điều cơ bản sau:
“Thứ nhất, mình xác định rõ đây là cuộc nội chiến giữa hai miền. Nó không phải là cuộc kháng chiến chống Mỹ, hay là chống xâm lược từ Miền Bắc. Đó là cuộc nội chiến giữa hai phe có tư tưởng khác nhau.
Thứ hai, ngày 30/4 là ngày mà Chính phủ phía Nam bị thất bại trước Chính phủ phía Bắc.
Thứ ba, ngày này không phải là “giải phóng”. Đây là ngày mà nói rằng “thống nhất đất nước” cũng có thể chấp nhận được, vì đây là ngày hai nước thống nhất trở thành một nước, nhưng nó không phải là ngày “giải phóng”. Bởi vì, người miền Nam chưa bao giờ có ý định muốn được giải phóng. Và nếu là ngày “giải phóng” thì tại sao sau ngày này lại có hàng triệu người phải ra đi để thoát khỏi cái đất nước vừa được “giải phóng” đó.”
Bạn Minh cho rằng ít nhất, những người biên soạn sách giáo khoa lịch sử Việt Nam cần nhìn nhận khách quan hơn về cả hai bên:
“Họ nên có cái nhìn khách quan và công bằng hơn với cả hai phe, cả Việt Nam Cộng Hoà và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngoài ra nên loại bỏ những từ tiêu cực và mang tính phân biệt khi nói về chính quyền Việt Nam Cộng Hoà như “Ngụy quân”, “Ngụy quyền”, “Bán nước”, “theo đế quốc Mỹ”…”
Theo Vy Nguyễn thì bây giờ có góp ý thay đổi cách giảng dạy bộ môn lịch sử cũng không có tác dụng. Chỉ có một nền dân chủ, tự do thực sự mới giúp người dân tự do tìm hiểu, tự do nhận định đâu là sự thật mà thôi:
“Thực tế lịch sử Việt Nam đã bị thay đổi khá nhiều. Bây giờ muốn thay đổi thì chỉ có một cách duy nhất là phải có sự tự do thật sự, một nền dân chủ thực sự thì mới có sự thay đổi trên tất cả mọi mặt, không chỉ về mặt giáo dục, kinh tế… Chứ còn bây giờ nói để góp ý thay đổi cũng không được. Chỉ có thay đổi được thực sự gốc rễ, khi có được tự do thì họ sẽ được tự do tìm kiếm, sẽ tự soạn thảo ra những chương trình để học thôi.”
Trong những ngày cuối tháng Tư này, báo chí Nhà nước rầm rộ đưa tin chào mừng ngày 30/4 với những từ ngữ quen thuộc như “dấu ấn lịch sử hào hùng” hay “đất nước trọn niềm vui”.
Vẫn không có thông tin về những gia đình bị chia cắt, những con người bị vùi dập, dòng người trốn chạy khỏi đất nước kể từ sau tháng 4/1975 được đưa lên mặt báo trong nước. Báo chí, sách vở ở Việt Nam vẫn im lặng về những vấn đề đó, cho dù chiến tranh đã qua gần nửa thế kỷ.
45 Năm Giải Phóng Miền Nam: Chỉ Đạo Chiến Lược Của Bộ Chính Trị
Bước vào nửa cuối năm 1974, cục diện chiến tranh có sự chuyển biến mạnh mẽ theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng. Trước tình hình đó, Đảng Lao động Việt Nam triệu tập Hội nghị Bộ Chính trị (họp từ ngày 30/9-7/10/1974) đề bàn kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Hội nghị đã phân tích tình hình và rút ra những nhận định rất quan trọng: Về tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường, cách mạng đang ở thế thắng, thế chủ động và tiến lên; trái lại địch chịu nhiều thất bại liên tiếp nên đang ở thế thua, thế bị động và xuống dốc.
Mỹ đã rút ra, đang gặp nhiều khó khăn, nên không có khả năng quay trở lại (can thiệp trực tiếp bằng quân sự); dù cho Mỹ có can thiệp trở lại bằng quân sự trong chừng mực nào đó thì cũng không xoay chuyển được tình thế, không cứu vãn được sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn.
Do có sự thỏa hiệp với đế quốc Mỹ, một số nước lớn có ý đồ cản trở thắng lợi của cách mạng Việt Nam, chia rẽ tình đoàn kết nhân dân ba nước Đông Dương nhằm phục vụ cho mưu đồ xâm lược bành trướng, nhưng thời điểm này chưa đủ sức, chưa sẵn sàng.
Từ những nhận định trên, Bộ Chính trị đi đến khẳng định đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn. Hai mươi năm nhân dân cả nước chiến đấu mới tạo được thời cơ này. Ngoài thời cơ này, không còn thời cơ nào khác. Nếu để chậm mươi, mười lăm năm nữa, địch gượng dậy được, các thế lực xâm lược bành trướng mạnh lên, tình hình sẽ phức tạp vô cùng.
Trên cơ sở nhận diện đúng thời cơ, Bộ Chính trị đề ra quyết tâm: “Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân ngụy (…), đánh đổ ngụy quyền ở trung ương và các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam” (trích Biên bản kết luận Hội nghị).
Về mặt thời gian, Bộ Chính trị cơ bản thống nhất đề án xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, chia làm hai bước: Bước 1 (1975), tranh thủ thời cơ, bất ngờ mở cuộc tiến công lớn và rộng khắp. Bước 2 (1976), thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam, giành toàn thắng.
Hội nghị cơ bản nhất trí với phương hướng chiến lược đã được Hội nghị Bộ Chính trị lần trước thông qua; đồng thời đi sâu phân tích, làm rõ thêm so sánh lực lượng giữa ta và địch; đánh giá khả năng can thiệp quân sự của Mỹ; trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn của chủ lực ta; về khả năng giành thắng lợi nhanh gọn, triệt để…
Giữa lúc Hội nghị đang diễn ra thì nhận được tin Quân giải phóng miền Nam đã giành thắng lợi vang dội trong chiến dịch Đường 14-Phước Long (13/12/1974-6/1/1975). Ta loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch; phá hủy, thu giữ nhiều loại vũ khí, đạn dược (trong đó có gần 10.000 viên đạn pháo); giải phóng toàn tỉnh Phước Long với 50.000 dân, tạo thêm bàn đạp uy hiếp từ phía bắc Sài Gòn. Cả Mỹ và chính quyền Sài Gòn đều phản ứng yếu ớt rồi chấp nhận thất bại.
Chiến thắng Phước Long có giá trị như “đòn trinh sát chiến lược,” cho thấy rõ hơn khả năng Mỹ sẽ không can thiệp trở lại bằng quân sự; đồng thời bộc lộ trình độ tác chiến yếu kém của chủ lực quân đội Sài Gòn, ta có thể giành thắng lợi sớm hơn.
Dựa trên những cơ sở thực tiễn mới nhất, đặc biệt là chiến thắng Phước Long, Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng khẳng định: “Thời cơ chiến lược của ta đang phát triển nhanh chóng đến độ chín muồi”, từ đó, chính thức hạ quyết tâm chiến lược: “Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, trong thời gian hai năm 1975-1976 đẩy mạnh đấu tranh quân sự, chính trị, kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta; tiến hành rất khẩn trương và hoàn thành mọi mặt công tác chuẩn bị, tạo điều kiện chín muồi, tiến hành tổng công kích tổng khởi nghĩa tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền từ trung ương đến địa phương, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam” (trích Biên bản kết luận Hội nghị).
Tuy đề ra kế hoạch hai năm 1975-1976, Hội nghị lần này cũng chỉ rõ nếu thời cơ đến sớm hơn, vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Phải tranh thủ đánh thắng nhanh để giảm bớt sự thiệt hại về người và của cho nhân dân, giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh. Bộ Chính trị thông qua kế hoạch tác chiến chiến lược do Bộ Tổng tham mưu soạn thảo (trải qua 8 lần xin ý kiến chỉnh sửa), thống nhất chọn Nam Tây Nguyên là hướng tiến công chủ yếu, với mục tiêu chính là thị xã Buôn Ma Thuột.
Đây là quyết tâm chiến lược cuối cùng giải phóng hoàn toàn miền Nam của tập thể Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, là kết quả của sự chuẩn bị chiến lược hết sức chủ động, dũng cảm, sáng tạo, công phu kiên trì, bền bỉ trên tất cả các mặt (chính trị, quân sự, ngoại giao, tiềm lực hậu phương và tiền tuyến, thế trận và lòng người…) trong thời gian dài, thể hiện trí tuệ, bản lĩnh Việt Nam trong “cuộc đụng đầu lịch sử” với đế quốc Mỹ và lực lượng phản động, tay sai.
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị đề ra, nhân dân cả nước ra sức chuẩn bị mọi mặt với khí thế hào hùng chưa từng có, hướng tới trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Trên khắp chiến trường, đầu năm 1975, quân dân ta đẩy mạnh hoạt động, đánh địch khắp nơi theo quy mô vừa và nhỏ là chính, vừa làm cho địch tiếp tục suy yếu và bị động, vừa thực hành nghi binh che giấu ý đồ, mục tiêu tiến công chiến lược của ta.
Trong lúc đó, Mỹ và chính quyền Sài Gòn vẫn chủ quan, đánh giá: sang năm 1975, phía Quân giải phóng sẽ đánh với quy mô mạnh hơn năm 1974, nhưng không bằng năm 1968 và năm 1972. Quân giải phóng cũng chưa có khả năng đánh chiếm thị xã, thành phố lớn, và nếu có chiếm cũng không giữ được.
Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu còn nhận định: hướng tiến công chủ yếu của Quân giải phóng là miền Đông Nam Bộ, do đó, bên cạnh việc tập trung lực lượng mạnh phòng thủ ở Quân khu 1 (tiếp giáp miền Bắc), địch huy động lực lượng về củng cố phòng thủ ở Quân khu 3 (miền Đông Nam Bộ).
Chỉ đạo kiên quyết, linh hoạt, sáng tạo
Thực hiện kế hoạch tác chiến chiến lược đã đề ra, sau một quá trình chuẩn bị, từ ngày 4/3/1975, quân dân ta bất ngờ mở chiến dịch tiến công Tây Nguyên, đánh chiếm mục tiêu chủ yếu (Buôn Ma Thuột) làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch trên chiến trường miền Nam.
Ngày 3/4/1975, chiến dịch Tây Nguyên kết thúc thắng lợi. Ta tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2-Quân khu 2 của chính quyền Sài Gòn, giải phóng Tây Nguyên cùng một số tỉnh ven biển Trung Trung Bộ, làm thay đổi cơ bản so sánh lực lượng, thế chiến lược giữa ta và địch, tạo bước ngoặt quyết định, đưa cuộc tiến công chiến lược của ta phát triển thành tổng tiến công trên toàn miền Nam.
Thắng lợi bước đầu của chiến dịch Tây Nguyên, đặc biệt là trận then chốt giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột (10/3/1975) và thông tin địch rút toàn bộ lực lượng khỏi Tây Nguyên đã mở ra khả năng thắng lớn của cách mạng.
Nhận thấy thời cơ chiến lược đến nhanh hết sức thuận lợi, ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị họp bàn, bổ sung vào quyết tâm chiến lược: thực hiện phương án tranh thủ thời cơ, giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay trong năm 1975. Kế hoạch hai năm được rút xuống còn một năm. Bộ Chính trị nhấn mạnh: Muốn hoàn thành nhiệm vụ cơ bản đó, nhiệm vụ trước mắt của quân và dân ta là mở đòn tiến công chiến lược thứ hai nhằm giải phóng Huế-Đà Nẵng và các tỉnh ven biển miền Trung.
Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị đề ra, quân dân ta đẩy mạnh tiến công địch ở Trị – Thiên, các tỉnh đồng bằng ven biển Khu 5, gây áp lực mạnh buộc địch phải thu dồn lực lượng về giữ các thành phố lớn là Huế, Đà Nẵng. Tranh thủ thời cơ địch co cụm, các binh đoàn chủ lực của ta phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang cùng nhân dân địa phương nhanh chóng mở các đợt tiến công giải phóng nhiều vùng nông thôn rộng lớn; đồng thời tổ chức các mũi thọc sâu chia cắt địch, chặn đường rút chạy của chúng, hình thành thế bao vây địch trong thành phố.
Ngày 25/3/1975, trong khi chiến trường đang diễn biến sôi động, bước vào thời điểm khẩn trương và quyết định, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã họp bàn khẳng định: “Cuộc tổng tiến công chiến lược của ta đã bắt đầu với chiến dịch Tây Nguyên. Thời cơ chiến lược mới đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam,” từ đó đề ra chủ trương: tập trung nhanh nhất binh lực, vật lực giải phóng miền Nam trước mùa mưa (khoảng giữa tháng 5/1975). Kế hoạch một năm tiếp tục được rút xuống còn 5 tháng.
Bộ Chính trị hạ quyết tâm mở chiến dịch lịch sử có ý nghĩa quyết định với quy mô lớn nhất: Chiến dịch tổng công kích và nổi dậy giải phóng Sài Gòn (sau được mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh). Nhưng muốn đi đến đòn quyết chiến chiến lược ấy, Bộ Chính trị chỉ đạo: dứt điểm giải phóng Thừa Thiên-Huế; đồng thời tiến công Đà Nẵng kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất và chắc thắng.
Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, tranh thủ địch đang hoang mang dao động, các cánh quân chủ lực của ta đồng loạt tiến công, chỉ trong thời gian ngắn đập tan mọi tuyến phòng thủ của địch, giải phóng Huế (26/3/1975), giải phóng Đà Nẵng (29/3) cùng các tỉnh ven biển miền Trung.
Ta đã tiêu diệt, làm tan rã toàn bộ lực lượng Quân đoàn 1-Quân khu 1 của địch, giáng đòn nặng nề vào chính quyền, quân đội Sài Gòn cũng như kế hoạch kéo dài chiến tranh của Mỹ; mở ra vùng hậu phương chiến lược hoàn chỉnh nối liền với miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng dễ dàng cơ động lực lượng, binh khí kỹ thuật phục vụ cho tác chiến quy mô lớn hơn. Thắng lợi này hợp cùng với thắng lợi Tây Nguyên đã làm thay đổi căn bản so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo bước phát triển nhảy vọt về cục diện chiến tranh hoàn toàn có lợi cho cách mạng.
Căn cứ vào những chuyển biến hết sức mau lẹ từ chiến trường, ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị họp bàn, ra quyết định lịch sử: “Nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng tư năm nay, không để chậm.” Kế hoạch 5 tháng tiếp tục được rút xuống còn 4 tháng. Bộ Chính trị cũng đề ra phương châm chỉ đạo: “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng.”
Đến ngày 7/4/1975, phương châm chỉ đạo này đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp phát lệnh truyền đi khắp các hướng chiến trường. Ngày 14/4/1975, thể theo nguyện vọng của đồng bào, chiến sĩ cả nước và đề nghị của Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn, Bộ Chính trị họp bàn, đồng ý chiến dịch giải phóng Sài Gòn ấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Vào những ngày tháng 4/1975, trên mọi miền đất nước, nhân dân ta ra sức chuẩn bị cho trận quyết chiến lịch sử. Quân ta trên chiến trường ra sức tạo thế, tạo lực.
Ngày 9/4/1975, quân ta tiến công Xuân Lộc – tuyến phòng thủ trọng yếu bảo vệ Sài Gòn từ phía đông của quân đội Sài Gòn. Ngày 16/4, quân ta đập tan tuyến phòng thủ Phan Rang.
Ngày 21/4/1975, quân địch ở Xuân Lộc tháo chạy. Trong khi đó, địch bị tổn thất nặng nề về lực lượng và phương tiện, tinh thần hoàng mang. Mỹ lập cầu hàng không viện trợ khẩn cấp cho chính quyền, quân đội Sài Gòn nhằm cứu vãn sự sụp đổ hoàn toàn, hi vọng tìm kiếm một giải pháp qua đàm phán.
Ngày 22/4/1975, Bộ Chính trị họp bàn, phát lệnh: “Thời cơ để mở cuộc tổng tiến công về quân sự và chính trị vào Sài Gòn đã chín muồi. Ta cần tranh thủ từng ngày để kịp thời phát động tiến công. Hành động trong lúc này là bảo đảm chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn. Nếu để chậm sẽ không có lợi cả về quân sự và chính trị.”
Ngày 26/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh chính thức bắt đầu. Tất cả các cánh quân của ta, bao gồm 4 quân đoàn (1, 2, 3, 4) và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn) lần lượt đập tan các tuyến phòng thủ vòng ngoài, đồng thời hình thành các mũi thọc sâu đánh chiếm 5 mục tiêu trọng yếu trong nội đô Sài Gòn.
Trưa ngày 30/4/1975, Quân giải phóng tiến vào Dinh độc lập, bắt sống toàn bộ nội các chính quyền Sài Gòn, buộc tổng thống Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
Như vậy, trải qua gần hai tháng Tổng tiến công và nổi dậy, quân dân Việt Nam đã giành thắng lợi trọn vẹn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc chặng đường 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng thời kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc kể từ Cách mạng tháng Tám năm 1945. Chiến công hiển hách đã làm kinh ngạc làm kinh ngạc cả thế giới.
Nhìn lại thắng lợi vang dội của 45 năm về trước, chúng ta càng nhận thức rõ ràng hơn về nghệ thuật chỉ đạo kết thúc chiến tranh tài tình, sáng tạo của tập thể Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, vượt qua mọi hoạch định, toan tính chiến tranh xâm lược của đối phương.
Quá trình chỉ đạo chiến lược của Bộ Chính trị trong giai đoạn kết thúc chiến tranh ấy đã để lại những bài học lịch sử lớn, quan trọng đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, như: kiên định mục tiêu độc lập dân và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh mới; bám sát thực tiễn, nhận diện nắm bắt đúng thời cơ, phát huy sức mạnh nội lực, kết hợp với tranh thủ những điều kiện khách quan thuận lợi để vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi mục tiêu cơ bản đề ra; tăng cường giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ trong mọi chủ trương, đường lối, chính sách vì lợi ích quốc gia, dân tộc; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng tiềm lực, thế trận quốc phòng-an ninh vững chắc, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt…
Đánh Giá Final Fantasy Xv Qua Góc Nhìn Của Một Game Thủ
Việc xây dựng Final Fantasy XV theo thế giới mở cho phép người chơi thoải mái di chuyển và khám phá bản đồ. Cũng bởi yếu tố này khiến cho Final Fantasy XV được đánh giá cực cao so với các tựa game trước đó.
Final Fantasy XV giới thiệu đến người chơi một thế giới tuyệt đẹp giống như bạn đang đi du lịch ngoài đời thực. Thế giới tuyệt đẹp trong game khiến cho bạn cảm thấy thích thú ngay từ đầu tiên vào chơi. Final Fantasy XV không giống như một tựa game, nó khiến cho người chơi cảm thấy mình như đang đi xem phim thì đúng hơn.
Tham gia vào game, bạn có thể tự do chạy trên các hoang mạc rộng lớn, không có điểm cuối. Khi đó, bạn có thể ngắm nhìn cảnh biển tuyệt đẹp từ trên các con đèo hay những thành phố cổ được thiết kế như thành phố Châu Âu ngoài đời thực. Chính vì thế, nếu bạn chưa biết chơi final fansyta XV thì hãy tham khảo hướng dẫn chơi Final Fantasy X nhé.
Bản đồ rộng và hệ thống các nhiệm vụ đa dạngĐây là yếu tố khám phá khiến người chơi cảm thấy thú vị hơn rất nhiều so với các trải nghiệm ban đầu của tựa game. Bản đồ trong game hấp dẫn như Final Fantasy XV khá rộng lớn và bạn rất khó có thể tìm thấy điểm cuối.
Khi di chuyển trong game Final Fantasy XV, bạn có thể bắt gặp những con quái vật khổng lồ cực mạnh và có tính thách thức cao.
Bên cạnh đó, hàng loạt nhiệm vụ ẩn và các phụ bản trong game Final Fantasy XV nằm rải rác ở khắp nơi. Khi đó, người chơi sẽ phải tự mình khám phá và hoàn thành chúng.
Không những vậy, cho dù lần thứ hai yếu tố thời gian được đưa vào tựa game Final Fantasy nhưng chúng vẫn khiến cho trải nghiệm Final Fantasy XV trở nên thú vị và hấp dẫn hơn nhiều.
Người chơi sẽ phải cố gắng hoàn thành các nhiệm vụ vào buổi sáng để tiết kiệm thời gian. Khoảng thời gian buổi tối, việc di chuyển sẽ trở nên khó khăn và nguy hiểm hơn rất nhiều.
Bởi trời tối rất khó nhìn đường mà còn khiến người chơi phải tự mình điều khiển mà không thể đặt chế độ auto. Hơn nữa, các loại quái vật cũng sẽ xuất hiện nhiều hơn vào buổi tối.
Lối chơi đơn giản và tinh tếHệ thống chiến đấu trong game Final Fantasy XV là một trong số những điểm khác biệt khi phá bỏ lối đánh truyền thống sang cơ chế chiến đấu hành động.
Mặc dù cảm giác chơi Final Fantasy XV có phần sôi động với tiết tấu nhanh hơn. Nhưng khi xét về nội dung “toàn cầu hóa” hướng đến đối tượng người chơi mới nên các trận đấu trong Final Fantasy XV trở nên dễ dàng hơn nhiều.
Trong nửa cốt truyện đầu, việc đánh quái hay đánh boss chẳng tạo nên bất cứ cảm giác khó khăn nào cho người chơi. Người chơi có thể điều khiển nhân vật đa phần chỉ cần ấn nút tấn công và chuyển đổi sang các loại vũ khí khác nhau để gây thêm nhiều sát thương chứ chẳng cần bất cứ tính toán nào.
Hệ thống tự định hướng đòn đánh khiến cơ chế chiến đấu trong Final Fantasy XV đơn giản hơn nhiều. Các đòn đánh Blitz (đánh nhiều mục tiêu) hay việc dùng Magic để tấn công đối phương gần như đã bị bỏ quên trong Final Fantasy XV lần này.
Lối chơi của Final Fantasy XV quá dễ, bạn chỉ cần ấn nút attack là được. Điều khiến các fan hâm mộ cảm thấy thất vọng, khi lối chơi trong game trở nên đơn giản và có phần casual.
Cốt truyện Final Fantasy XV sơ sài, bi thảmCác bạn đều biết, Final Fantasy XV cốt truyện xoay quanh nhân vật chính Noctis – chàng hoàng tử của vương quốc Lucis. Thế nhưng lối dẫn chuyện của Final Fantasy XV không làm được tốt so với các phiên bản trước đó.
Khi giải thích kết thúc Final Fantasy XV, các game thủ cho rằng nếu như không xem trước hai phần kia thì chưa chắc bạn đã hiểu diễn biến cốt truyện Final Fantasy XV.
Trong quá trình thưởng thức cốt truyện Final Fantasy XV. Người chơi sẽ thấy hàng loạt những điểm bất hợp lý cần được giải thích. Hơn nữa, dàn nhân vật chính của Final Fantasy XV được xây dựng tương đối hời hợt. Mặc dù trong game có một vài nhân vật nữ nhưng tần suất lên sóng của họ lại cực kỳ ít.
Bạn chỉ quanh quẩn với một nhóm toàn con trai cùng đi tình người anh em vô cùng nhàm chán, thiếu lãng mạn mà một tựa game Final Fantasy thông thường vẫn có.
Tầm Nhìn Chiến Lược Và Sự Lãnh Đạo, Chỉ Đạo Của Đảng Đối Với Quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam Trong Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ, Cứu Nước
1/8/2023 7:01:23 AM
Trước yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 (01/1959) và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960), cách mạng miền Nam đã chuyển hướng chiến lược từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, lấy đấu tranh vũ trang là quyết định. Theo đó, các lực lượng cách mạng chủ động tiến công địch trên nhiều mặt trận, với nhiều quy mô, hình thức. Từ thực tiễn cách mạng miền Nam, lực lượng vũ trang chính quy của ta đã tập kết ra miền Bắc sau Hiệp định Giơnevơ (7/1954); Trung ương Đảng chủ trương: “Đi đôi với xây dựng lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị, phải ra sức xây dựng lực lượng vũ trang bao gồm dân quân, du kích ở thôn, xã, bộ đội địa phương tỉnh, huyện đến bộ đội chủ lực khu, miền, đồng thời phải đẩy mạnh đấu tranh quân sự của ba thứ quân để giúp sức đắc lực cho đấu tranh chính trị”1; trong đó, chú trọng xây dựng các đơn vị vũ trang tập trung.
Thực hiện chủ trương đó, tháng 01/1961, Tổng Quân ủy quyết định thành lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam, trong đó nêu rõ: “Quân giải phóng miền Nam Việt Nam là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng sáng lập và xây dựng, giáo dục và lãnh đạo,… Quân giải phóng miền Nam Việt Nam kế tục truyền thống anh dũng, tinh thần quật khởi và đoàn kết chiến đấu của nhân dân Việt Nam anh hùng, kế tục truyền thống vẻ vang phục vụ nhân dân của Quân đội nhân dân Việt Nam”2. Cùng với đó, Trung ương Đảng quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam để lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng miền Nam; củng cố, kiện toàn các tổ chức: Quân ủy Miền, Bộ Tư lệnh Miền, Bộ Tư lệnh các khu; tổ chức lại các chiến trường theo yêu cầu của cuộc kháng chiến; nghiên cứu, phát triển nghệ thuật đánh địch; vừa xây dựng Quân giải phóng, vừa chiến đấu, vừa lao động sản xuất, v.v.. Đồng thời, tích cực củng cố, mở rộng các căn cứ địa cách mạng từ khu Dương Minh Châu ra địa bàn miền Đông Nam Bộ, xây dựng hậu phương tại chỗ; mở rộng hành lang vận chuyển Bắc – Nam cả trên bộ và trên biển; tăng cường cán bộ chỉ huy, chính trị, hậu cần và một số đơn vị chiến đấu cấp đại đội, tiểu đoàn, nâng dần quy mô, khối lượng tiếp tế, vận chuyển vũ khí, phương tiện kỹ thuật, cung cấp tài chính từ miền Bắc vào miền Nam.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; trực tiếp là Trung ương Cục miền Nam, Bộ Chỉ huy Miền, Quân giải phóng đã không ngừng lớn mạnh, trưởng thành về mọi mặt, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng tiến hành thắng lợi hàng loạt trận đánh, chiến dịch ở các quy mô, hình thức, như: Ấp Bắc, Núi Thành; các chiến dịch: Ba Gia, Bình Giã, Đồng Xoài, Mậu Thân 1968, Xuân – Hè 1972, Đường 14 – Phước Long, Tây Nguyên, Trị Thiên – Huế, Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Tiêu hao, tiêu diệt, phá hủy nhiều lực lượng, phương tiện chiến đấu của địch, giải phóng nhiều địa bàn, tập trung vào khu vực Nam Trung Bộ, Nam Bộ và Nam Tây Nguyên, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, hiệu quả của Đảng đối với cách mạng miền Nam nói chung, Quân giải phóng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói riêng để lại nhiều bài học quý, mang tầm chiến lược; nổi bật là:
Một là, nhận định, đánh giá, dự báo chính xác tình hình, diễn biến chiến tranh làm cơ sở chỉ đạo chuyển hướng chiến lược cách mạng trong từng giai đoạn và cả cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Để đối phó với chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, trên cơ sở thế và lực mới do cao trào đồng khởi tạo ra, Bộ Chính trị nhận định: “Trên thế giới, phong trào giải phóng dân tộc đang lên, nhất là ở châu Á, châu Phi và Mỹ latinh, khiến cho Mỹ phải phân tán lực lượng đối phó nhiều nơi; phe xã hội chủ nghĩa lớn mạnh về mọi mặt nhất là Liên Xô, Trung Quốc”3. Điều đó, tạo động lực mạnh mẽ cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới: “Lương tri loài người đã thức tỉnh trước họa xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới”4. Đối với nước ta, “Thời kỳ tạm ổn của chế độ Mỹ – Diệm đã qua, thời kỳ khủng hoảng liên tiếp, suy sụp nghiêm trọng bắt đầu, các hình thái du kích cục bộ, khởi nghĩa từng phần đã xuất hiện mở đầu cho cao trào cách mạng ngày càng lớn”5. Xét về mặt chiến lược, tuy ta đang ở thế chủ động, Mỹ và tay sai đang ở thế bị động, nhưng Đảng ta nhận định: “Chiến tranh sẽ mở rộng; cuộc chiến đấu sẽ ác liệt, phức tạp; đấu tranh chính trị và vũ trang sẽ diễn ra đồng thời, nhưng từ đây đấu tranh vũ trang đóng vai trò ngày càng quyết định”6. Trên cơ sở đó, Đảng chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng từ đấu tranh chính trị sang kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, lấy đấu tranh vũ trang là quyết định.
Thực tế cho thấy, khi Mỹ đưa quân viễn chinh vào miền Nam thực hiện hai cuộc tiến công chiến lược mùa khô (1965 – 1966) và (1966 – 1967), ta đánh giá lực lượng địch tuy lớn, nhưng về tư tưởng, tổ chức có vấn đề vì chiến lược “chiến tranh đặc biệt” vừa thất bại, từ đó ta phát động cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), đánh đòn bất ngờ, tiêu hao, tiêu diệt lực lượng lớn quân địch, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, thay đổi chiến lược. Năm 1971, với sự yểm trợ của không quân và pháo binh Mỹ, quân ngụy tiến đánh Đường 9 – Nam Lào và biên giới Campuchia. Quân ngụy đông, lực lượng dự bị chiến lược lớn, nhưng tinh thần hoang mang do sức ép của ta và việc quân Mỹ đang từng bước rút khỏi Việt Nam theo chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Trước tình hình đó, ta đã hạ quyết tâm tiến hành cuộc phản công chiến lược, đánh bại cuộc hành quân “Lam Sơn 719” và cuộc hành quân “Toàn Thắng 1-71 NB”.
Trên cơ sở nắm chắc “quy luật leo thang chiến tranh” của đế quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn Bộ đội Phòng không – Không quân: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến trước mọi tình huống càng sớm càng tốt, để có thời gian mà suy nghĩ, chuẩn bị…”7. Thực hiện lời dạy của Bác, ta chuẩn bị kỹ lưỡng các phương án đánh địch bảo vệ Hà Nội và các vùng phụ cận. Khi Mỹ tiến hành cuộc tập kích đường không bằng máy bay ném bom chiến lược B-52 (chiến dịch Linebacker II) thì Hà Nội đã sẵn sàng đánh trả, làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không” (12/1972) vang dội, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari (01/1973), rút quân về nước. Đặc biệt, trước khi quyết định thực hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, Trung ương Đảng đã phân tích, đánh giá tình hình thế giới, khu vực, chú trọng mối quan hệ chủ – tớ (Mỹ – ngụy) và thống nhất nhận định: Mỹ không có khả năng can thiệp trở lại để cứu nguy cho quân ngụy, nên ta quyết tâm thực hiện ba đòn tiến công chiến lược: Đập tan ngụy quân, đánh sập ngụy quyền, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Cùng với nhận định, đánh giá chính xác những hoạt động tác chiến chiến lược có tính quy luật của địch, dự báo được tiến trình chiến tranh, Trung ương còn phân tích, nắm chắc thế và lực của ta, tình hình địa hình, thời tiết,… trên cơ sở đó chỉ đạo chuyển hướng đấu tranh cách mạng, hạ quyết tâm, điều chỉnh ý định tác chiến chiến lược nhằm hạn chế chỗ mạnh, khoét sâu chỗ yếu của địch; đồng thời, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả lực lượng đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang, cách đánh sở trường của lực lượng vũ trang và ưu thế vũ khí, trang bị kỹ thuật, giành thắng lợi quyết định trên từng chiến trường, kết thúc chiến tranh.
Hai là, chủ động, tích cực xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang; mở rộng căn cứ địa cách mạng, hậu phương kháng chiến, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.
Đầu năm 1961, trong thư gửi Xứ ủy Nam Bộ, đồng chí Lê Duẩn viết: “Phải gắn liền đấu tranh với xây dựng lực lượng chính trị, quân sự của ta. Đi sâu củng cố các tổ chức đảng, đoàn, các đội ngũ quần chúng cách mạng, tăng cường giáo dục chính trị, nâng cao ý chí chiến đấu và lòng tin vào thắng lợi cuối cùng”8. Đảng ta chỉ đạo Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tích cực, chủ động tập hợp lực lượng, phát triển đảng viên, đoàn viên; đẩy mạnh củng cố, xây dựng hệ thống tổ chức đảng, đoàn thể; khẩn trương xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ), lực lượng thanh niên xung phong, biệt động Thành,… nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần, lực lượng, tầng lớp nhân dân đấu tranh toàn diện trên các lĩnh vực: quân sự, chính trị, ngoại giao, chống sự can thiệp, viện trợ của Mỹ và đồng minh đối với ngụy quyền Sài Gòn. Mặt trận chú trọng tổ chức vận động, giác ngộ nhân dân, lực lượng chính trị quần chúng tham gia lực lượng vũ trang ba thứ quân, trọng tâm vào các đội vũ trang tự vệ, dân quân du kích vừa sản xuất, vừa chiến đấu đánh địch mọi lúc, mọi nơi..v.v.. Khi đế quốc Mỹ tăng cường can thiệp vũ trang vào miền Nam, thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt” với thủ đoạn “dùng người Việt đánh người Việt”; thực hiện gom dân, lập “ấp chiến lược” hòng tách rời, cô lập nhân dân với Mặt trận, Ủy ban Trung ương lâm thời kêu gọi nhân dân miền Nam tập trung mọi nỗ lực, kiên quyết đánh thắng “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.
Ba là, lãnh đạo, chỉ đạo Quân giải phóng tiến hành các đòn tiến công quân sự giành thắng lợi quyết định trên toàn chiến trường miền Nam
Sau khi Quân giải phóng được thành lập, lực lượng vũ trang miền Nam nhanh chóng phát triển từ các đơn vị bộ đội địa phương, dân quân du kích, lên các tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn chủ lực; từ tác chiến du kích tiến lên tác chiến lớn bằng các đơn vị chính quy, từng bước nâng lên tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng; từ những trận đánh nhỏ có tính chất thăm dò, tiến tới đánh thắng những trận đánh, chiến dịch then chốt, then chốt quyết định, đập tan các chiến lược quân sự của Mỹ. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Cục miền Nam và Mặt trận Dân tộc giải phóng, Quân giải phóng đã phát huy vai trò nòng cốt, phối hợp chặt chẽ với các tầng lớp nhân dân miền Nam tiến hành nhiều hình thức đấu tranh bằng “hai chân”, “ba mũi”, “ba vùng”, kết hợp đấu tranh trên cả ba mặt trận: chính trị, quân sự và ngoại giao; kết hợp tiến công với nổi dậy, tổng khởi nghĩa, tổng tiến công,… tạo sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc đánh bại các chiến lược: “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh”, tiến lên đánh bại hoàn toàn chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.
Quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công của Đảng, Quân giải phóng vừa xây dựng, phát triển lực lượng tại chỗ, vừa tiếp nhận lực lượng, vật chất, hậu cần, kỹ thuật từ hậu phương lớn miền Bắc chi viện, đồng thời phát huy vai trò nòng cốt, xung kích tham gia chiến đấu trên toàn miền Nam. Tổ chức các trận đánh, chiến dịch quan trọng, tiêu hao, tiêu diệt, làm thiệt hại lớn lực lượng, phương tiện của Mỹ và quân đội Sài Gòn. Trong đó, nhiều trận do bộ đội địa phương tiến hành thắng lợi, có ý nghĩa chiến lược, đánh dấu bước trưởng thành nhiều mặt của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam, chứng tỏ khả năng đánh thắng chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” và khẳng định tinh thần dám đánh và dám thắng quân Mỹ của Quân giải phóng. Cùng với đó, ta tiến hành đợt hoạt động Đông Xuân 1964 – 1965 với thắng lợi của các chiến dịch: Ba Gia, Bình Giã, Đồng Xoài, An Lão đã thúc đẩy phong trào chiến tranh du kích toàn miền Nam lên cao, đưa quân ngụy đến bờ vực tan rã.
Đặc biệt, trong Chiến dịch Plây Me (1965), ta tổ chức vây ép đồn Plây Me, diệt đồn Chư Ho, buộc địch phải ứng cứu, giải tỏa bằng đường không xuống thung lũng Ia Đrăng – địa bàn ta đã chuẩn bị sẵn thế trận, tổ chức đánh trận then chốt quyết định, tiêu diệt gần 1 tiểu đoàn, đánh thiệt hại tiểu đoàn khác, buộc Sư đoàn Kỵ binh không vận Mỹ lần đầu ra quân đã phải rút chạy khỏi thung lũng Ia Đrăng. Ta càng đánh càng mạnh, chủ lực Quân giải phóng liên tục phát triển với đầy đủ các quân, binh chủng, cho phép tổ chức các chiến dịch quy mô lớn, các hoạt động tác chiến chiến lược, như: cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Trị Thiên – Huế, Chiến dịch Đà Nẵng và Chiến dịch quyết chiến chiến lược Hồ Chí Minh (1975). Những trận đánh, chiến dịch tiến công, phản công quân sự và hoạt động tác chiến chiến lược trên toàn chiến trường của Quân giải phóng cùng các hoạt động đấu tranh ngoại giao, chính trị của Trung ương và Mặt trận, đoàn thể địa phương, góp phần quyết định thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược: đánh cho “Mỹ cút”, đánh cho “ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Bốn là, với tầm nhìn vượt trước, Đảng ta đã nắm, tận dụng thời cơ, lãnh đạo, chỉ đạo Quân giải phóng tổng tiến công chiến lược, kết thúc chiến tranh trong điều kiện có lợi nhất
Trong nước, quân ngụy đang suy yếu, lo chống đỡ các đòn tiến công của chủ lực Quân giải phóng, thế và lực của cách mạng đang phát triển mạnh mẽ, toàn diện, đây là thời cơ để kết thúc chiến tranh: “Lúc này chúng ta đang có thời cơ. Hai mươi năm chiến đấu mới tạo được thời cơ này”12, cần phải kịp thời nắm lấy để “hoàn toàn giải phóng miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn cho cách mạng dân tộc, dân chủ… ngoài thời cơ này không có thời cơ nào khác. Nếu để chậm mươi, mười lăm năm nữa, bọn ngụy gượng dậy được, các thế lực xâm lược được phục hồi,… thì tình hình sẽ phức tạp vô cùng”13. Vì vậy, chúng ta phải tranh thủ, tận dụng thời cơ tổng tiến công và nổi dậy để đánh cho “ngụy nhào”. Sau khi ta giành thắng lợi nhanh chóng, áp đảo quân địch trong các Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Trị Thiên – Huế và Chiến dịch Đà Nẵng, Trung ương Đảng quyết định tận dụng thời cơ này, đẩy thời gian giải phóng miền Nam vào năm 1975, sớm hơn so với quyết tâm ban đầu. Đồng thời, chỉ đạo các đơn vị chủ lực miền Bắc khẩn trương tăng cường cho chiến trường miền Nam theo phương châm vừa hành quân, vừa chiến đấu, với tinh thần “đi nhanh đến, đánh nhanh thắng” và khí thế “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo: “Một ngày bằng 20 năm, thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa; tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”14.
Cuối tháng 3, đầu tháng 4/1975, ta đã hội tụ đầy đủ các yếu tố về ý chí quyết tâm, lực lượng (chính trị, quân sự, quần chúng nhân dân), phương tiện, công tác chỉ huy, bảo đảm,… để tiến lên giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam. Ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị đã thông qua Kế hoạch giải phóng Sài Gòn mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh. Chiến dịch quyết chiến chiến lược cuối cùng diễn ra trong thời gian ngắn và đi đến toàn thắng, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, non sông thu về một mối. Kết quả này khẳng định mưu lược, tài nghệ chính trị – quân sự của Đảng ta trong nắm và tận dụng thời cơ kết thúc chiến tranh.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với cách mạng miền Nam nói chung và Quân giải phóng miền Nam Việt Nam nói riêng để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý về tiến hành chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân Việt Nam; nổi bật là bài học về tầm nhìn chiến lược và sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với Quân giải phóng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bài học đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn, cần tiếp tục được nghiên cứu, phát triển trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại tướng LƯƠNG CƯỜNG, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam
1 – Lê Duẩn, Thư vào Nam, Nxb Sự thật, H. 1985, tr. 43.
2 – Viện Lịch sử quân sự Việt Nam – Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 – 1975, Nxb CTQG, H. 1997, tr. 32-33.
3 – Lê Duẩn, Thư vào Nam, Nxb Sự thật, H. 1985, tr. 42.
4 – Sđd, tr. 42.
5 – Viện Lịch sử quân sự Việt Nam – Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 – 1975, Tập 3, Nxb CTQG, H. 1997, tr. 27.
6 – Sđd, tr. 31, 32.
7 – Hồ Chí Minh, Biên niên sự kiện và tư liệu quân sự, Nxb QĐND, H. 1990, tr. 203.
8- Lê Duẩn, Thư vào Nam, Nxb Sự thật, H. 1985, tr. 49.
9 – Sđd, tr. 34.
10 – Đến cuối năm 1967, ở Sài Gòn, ta đã xây dựng được 19 tổ chức cơ sở chính trị tại các mục tiêu trọng yếu, gồm 325 gia đình, tạo được 400 điểm ém lực lượng, cất giấu vũ khí, đạn dược bảo đảm an toàn (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam – Tổng kết tác chiến chiến lược trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 – 1975), Nxb Chính trị quốc gia, H. 1997, tr. 577).
11 – Trong 15 năm kháng chiến chống Mỹ (1960 – 1975), hậu phương tại chỗ trên các chiến trường miền Nam đã bảo đảm 22,5% nhu cầu vật chất cho lực lượng vũ trang (Sđd, tr. 577).
12 – Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 35, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1974, tr. 177.
13 – Sđd, tr. 179.
14 – Đại tướng Võ Nguyên Giáp với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 2005, tr. 952.
Sự Thật Về Cuộc Di Tản Trước Giải Phóng Miền Nam Năm 1975
Trước thời điểm giải phóng một vài tháng, người Mỹ đã phao tin về một “cuộc thảm sát đẫm máu” khủng khiếp có thể sẽ xảy ra ở Sài Gòn nếu Việt Cộng chiếm được thành phố. Mỹ khẳng định sẽ có khoảng từ 150.000 – 200.000 người sẽ trở thành nạn nhân của những cuộc trả thù. Những tưởng tượng về một cuộc thảm sát đẫm máu đó đã lan truyền rộng, không chỉ trong giới sĩ quan của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, nhân viên làm việc cho Mỹ, mà còn lan tới những người phục vụ cấp thấp sống dựa vào đồng đô-la Mỹ. Từ gái bar phục vụ lính Mỹ tới đầu bếp, lái xe làm việc cho các gia đình người Mỹ, các bác sĩ, kỹ sư và những thanh niên chỉ đơn thuần là học tại Mỹ cũng đều sợ mình sẽ là mục tiêu tấn công.
Cụ thể, chính quyền Thiệu phối hợp với Washington gieo rắc những thông tin như: 12 cảnh sát Việt Nam Cộng hòa bị diễu trần truồng qua các đường phố khi quân giải phóng chiếm Đà Nẵng, rồi sau đó bị chém đầu từng người một; Giám mục nhà thờ Buôn Ma Thuột bị Việt Cộng bắt và bị chặt thành 3 mảnh; 300 người bị đánh bằng gậy cho tới chết ở chợ Buôn Ma Thuột. Trước giải phóng, tất cả người dân Sài Gòn đều bị tuyên truyền và truyền miệng những câu chuyện kiểu như vậy do Mỹ Thiệu dựng lên.
Nhân viên và binh lính Mỹ vội vã lên một chiếc trực thăng của Hải quân Mỹ trong cuộc di tản Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn, ngày 29/4/1975 (Ảnh: Neal Ulevich – AP)
Tất cả chỉ là dựng chuyện. 300 người chết ở Buôn Ma Thuột thật nhưng họ là nạn nhân của một trận ném bom do chính Thiệu ra lệnh sau khi thành phố này được giải phóng.
Càng gần tới ngày giải phóng, Mỹ càng phóng đại nguy cơ thảm sát đối với người dân miền Nam. Ngày 16/4, James Schlesinger, Bộ trưởng Quốc phòng, đã báo cáo Quốc hội Mỹ rằng, ít nhất 200.000 người dân của Việt Nam Cộng hòa có thể sẽ bị giết trong sự kiện Cộng sản chiến thắng. Ngoại trưởng Mỹ Kissinger phát biểu trước Ủy ban Cứu trợ khẩn cấp của Hạ viện rằng: “Chúng tôi cho rằng, Cộng sản đang cố thanh toán tất cả các thành phần có thể. Sẽ có nhiều hơn các án tử hình nữa”. Tờ Stars and Stripes, tờ báo của quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương, đã đưa một dòng tít gây sự chú ý trong một trong những số báo: “Sẽ có ít nhất một triệu người Việt Nam Cộng hòa bị tàn sát”.
Theo cuốn sách “Giải phóng” của nhà báo Ý Tizano Terzani, Mỹ cố tình tạo nỗi kinh hoàng trong lòng dân miền Nam tới mức độ các cô gái thậm chí tin rằng quân giải phóng “sẽ rút móng tay của từng cô gái một chỉ đơn giản bởi vì họ sơn móng tay” hoặc những người phụ nữ có con với người Mỹ tin rằng, Cộng sản sẽ bắt và giết những đứa con của họ.
Ngày 17/4, Khmer Đỏ chiếm Phnom Penh. Chính quyền Sài Gòn tận dụng việc này và cho đăng tải trên trang nhất các tờ báo ở Sài Gòn về những câu chuyện không rõ ràng về các cuộc thảm sát và bạo lực ở Campuchia. Việc này một lần nữa làm người dân căng thẳng, lo sợ điều tương tự sẽ diễn ra ở Việt Nam với quy mô lớn hơn. Nhiều người Sài Gòn thân Mỹ tự tưởng tượng ra rằng, sẽ có các nhóm ám sát đi từ nhà này tới nhà khác với những danh sách sẵn có từ lâu (như họ vẫn nghe thấy) để tìm người để bắn.
Chính nhà báo phương Tây Tizano Terzani đã khẳng định: “Những câu chuyện và những đồn đại về các cuộc tàn sát, “thảm sát đẫm máu” là do cơ quan tuyên truyền của Mỹ và Thiệu nghĩ ra và tuyên truyền để làm mất uy tín của đối phương, để củng cố tinh thần kháng cự trong người dân và trong Quân đội Việt Nam Cộng hòa, cũng là để thuyết phục Quốc hội Mỹ dành thêm hàng tỉ đôla để cứu Việt Nam, hoặc ít nhất là cứu một số lượng lớn những người miền Nam Việt Nam”. Nhưng sự tuyên truyền này lại gây tác dụng ngược, trở thành một trong những yếu tố khiến miền Nam trở lên hỗn độn, bạo lực và dễ dàng sụp đổ hơn.
Mỹ lên kế hoạch tổ chức di tản
Mỹ không chỉ tuyên truyền mà còn trực tiếp lên kế hoạch thực hiện việc di tản. Người Mỹ đã lên các kế hoạch sẽ di tản không chỉ toàn bộ kiều bào Mỹ và người thân của họ, mà còn tất cả những người Việt Nam đã hợp tác với Mỹ.
Bộ phận CIA của Đại sứ quán đã chuẩn bị một danh sách dài những người cần di tản, có phân chia thứ tự ưu tiên di tản khác nhau phụ thuộc vào mức độ bị đe dọa của mỗi người. Đầu tiên là các quan chức cấp cao, các bộ trưởng đương chức hoặc đã nghỉ hưu; các đặc vụ, những cảnh sát mật. Sau đó là di tản các lãnh đạo tỉnh, huyện, các nghị sĩ, các quan chức cao cấp của một số bộ nhất định, các tướng và nhân viên ngoại giao đã nghỉ hưu. Tiếp đến là những người có mối liên hệ với chính sách của Mỹ ở Việt Nam.
Bộ Ngoại giao Mỹ đã tính toán, tối thiểu là khoảng 130.000 người cần được di tản. Danh sách di tản đã sẵn sàng. Một phi đội máy bay đã được Lầu Năm Góc chỉ định cho việc di tản. Các tàu Mỹ cũng sẵn sàng ngoài phao số 0 để vận chuyển người di tản. Việc di tản diễn ra chậm hơn dự kiến chỉ vì Đại sứ Martin ở Sài Gòn và Ngoại trưởng Mỹ Kissinger ở Washington lo sợ di tản quá sớm sẽ đẩy nhanh hơn nữa sự sụp đổ của một chế độ vốn đã lung lay tận gốc.
Ngoại ô Sài Gòn ngày 30/4/1975; Lính Việt Nam Cộng hòa vứt bỏ quân phục để che giấu thân thế của mình. (Ảnh: Dương Thanh Phong)
Khi nhận thấy thế bại chắc chắn, Đại sứ quán Mỹ vẫn chưa tuyên bố di tản chính thức nhưng đã bí mật di tản những gia đình Mỹ đi trước để không gây sự chú ý quá mức. Mãi tới khi Tổng thống Thiệu từ chức, cuộc di tản mới được tuyên bố chính thức với con số mà Mỹ dự định mang đi lên tới 35 ngàn người. Các thẻ lên máy bay bắt đầu được phát để mọi người lên những chiếc “Freedom Birds – Những chú chim tự do”, những chiếc máy bay rời đến Guam hoặc Phillippines, trước khi sang Mỹ tỵ nạn.
Kích động di tản để kiếm tiền
Di tản người Việt Nam biến thành cơ hội để kiếm tiền cho quan chức và binh lính Mỹ. Họ bảo lãnh và hứa cho nhiều người Việt di tản, khiến những người này đã bán tất cả mọi thứ tài sản, đổi những đồng tiền cuối cùng của mình sang đồng đôla với giá chợ đen chỉ để được đi.
Ngày bại trận tới gần, những thẻ lên máy bay được Đại sứ quán Mỹ cấp cho người Việt càng trở nên quý giá. Ở chợ Sài Gòn, những tấm thẻ đó tăng từ 1 nghìn đến 2 nghìn, rồi 3 nghìn đôla một tấm. Nhân viên làm ở Cục thông tin Mỹ thay vì cấp những tấm thẻ đó cho mọi người ở cơ quan, đã bán chúng với giá 1.500 đôla mỗi tấm.
Ở Sài Gòn, người ta đồn đại rằng, mỗi người Mỹ có thể đưa theo sang Mỹ tới 10 người Việt bằng cách như trên và một thị trường mới bắt đầu phát triển trong cơn tuyệt vọng và sợ hãi của nhiều người. Các gia đình giàu có cố gắng mua “những người Mỹ”, những người có thể đưa họ đi với giá từ 5 đến 10 nghìn đôla mỗi suất. Nhiều người đã đưa tiền và sau đó không nhận được bất kỳ sự trợ giúp nào.
Những người Mỹ khởi hành rời Việt Nam, thậm chí còn quên cả những người đồng hương và đồng minh của họ. Mỹ để lại Việt Nam 250 người Phillippines đã từng làm việc cho họ. Họ cũng bỏ rơi 12 nhà ngoại giao Hàn Quốc, một nhóm người Hoa đến từ Đại sứ quán Đài Loan và đã để lại toàn bộ cán bộ, nhân viên Đại sứ quán Campuchia thời Lon Nol. Cuối cùng, chính quân giải phóng là những người đã bí mật đưa nhiều người trong số này lên những chiếc máy bay đầu tiên rời Việt Nam sang Lào để tránh sự lựa chọn khó xử.
Kết luận về cuộc di tản lịch sử
Như vậy, có thể kết luận cuộc di tản khổng lồ diễn ra trước khi Sài Gòn giải phóng là do chính Mỹ và chính quyền Thiệu tạo ra, đánh vào tâm lý sợ hãi của người dân, đẩy họ rời khỏi Việt Nam để gây mất ổn định cho chính quyền mới, khoét sâu hận thù dân tộc, đổ lỗi cho quân giải phóng. Cuộc di tản còn nhằm phá hoại nền kinh tế miền Nam bởi tầng lớp di tản cũng là những người nắm giữ huyết mạch kinh tế, đặc biệt là cộng đồng doanh nhân và cộng đồng người Hoa. Dư âm của cuộc di tản tới giờ vẫn chưa kết thúc, sự thù hận và tố cáo tới giờ vẫn tiếp diễn với luận điệu chủ yếu là lên án bạo lực của chính quyền Cách mạng đã đẩy người dân tới chỗ phải rời bỏ đất nước.
Sự thật sau gần nửa thế kỷ đã được làm rõ trong hầu hết các tài liệu từ phía bên kia. Tất cả đều khẳng định: sau ngày giải phóng và những năm sau đó, ở Sài Gòn không có sự thanh toán, trả thù lẫn nhau, không có việc sát hại những người theo Mỹ. Nhà báo người Ý viết trong cuốn “Giải phóng”: “Ngày 30 tháng 4 và những ngày sau đó, ở Sài Gòn không có chuyện bắn những kẻ cộng tác với địch, những cảnh sát hay những kẻ tra tấn người yêu nước trước đó. Thật kỳ lạ, đối với một thành phố luôn âm ỉ những lời đồn đại, những câu chuyện không có thật và khó tin nhất như Sài Gòn thì lại không có đến một lời đồn đại về một án tử hình ở đâu đó”.
Người dân Sài Gòn tưng bừng chào đón quân Giải phóng, ngày 30/4/1975. Sự giết chóc đã không hề xảy ra như những gì Mỹ-ngụy phao tin để gieo rắc nỗi sợ hãi trong nhân dân. (Ảnh: Đinh Quang Thành)
Thực tế, đã có một số án tử hình trong 3 tháng ở Sài Gòn sau giải phóng nhưng đó hoàn toàn là việc xử lý những kẻ phạm tội giết người, cướp bóc, không có tội phạm chính trị. Thực tế, nhiều tàn binh của Thiệu đã thâm nhập và giả vờ làm bộ đội để khủng bố người dân ở các khu dân cư, vào các biệt thự bỏ hoang để ăn trộm của cải, ô-tô xe máy. Nhiều bộ đội giải phóng đã bị những kẻ tội phạm giết hại trên phố vào ban đêm chỉ để chúng lấy những bộ quân phục của họ để thực hiện những việc phạm tội. Chính nhờ sự cứng rắn của chính quyền Cách mạng mà tội phạm trên đường phố Sài Gòn giảm hẳn so với trước giải phóng. Bộ đội và quân giải phóng không hề “cướp bóc” như những kẻ chống đối dựng chuyện, mà ngược lại đã dẹp yên được nạn hôi của cướp phá trong nội đô Sài Gòn.
Trước và sau giải phóng, chính quyền Cách mạng đều có chủ trương hết sức rõ ràng rằng, phải để Mỹ rút lui trong danh dự để sớm ổn định đất nước. Đã không có cuộc tấn công nào vào lính Mỹ và các nhân viên của chính quyền Hoa Kỳ khi họ di tản. Đối với người Việt đã theo Mỹ, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng xác định họ đã bị lợi dụng chứ không phải là đối tượng cần mạnh tay xử lý. Chính quyền luôn coi trọng việc bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc và giữ gìn sự ổn định của miền Nam. Chính vì thế, đúng như các nhà báo nước ngoài đã tường thuật, các nhà chức trách quân sự thường xuyên phát đi những lời kêu gọi qua radio, hối thúc mọi người bảo vệ cả tài sản cá nhân và “tài sản của nhân dân”, các thông báo được gửi đi đều nhấn mạnh sẽ có “những hình phạt rất nặng” đối với những kẻ trộm, cướp. Tất cả người dân đều được giải thích rõ rằng chính sách của cách mạng là khoan hồng, rằng không ai bị phạt vì phạm tội trong quá khứ, không ai phải sợ sẽ bị trả thù.
Một thực tế khác không thể không nhắc tới là vào ngày giải phóng và sau đó, có hiện tượng như việc gia đình một số người yêu nước đã bắt hai sĩ quan cảnh sát chế độ cũ có tội ác và định hành hình họ. Bộ đội đã can thiệp và hai người này đã được cứu sống. Tài liệu nước ngoài ghi nhận: “Những sự vụ tương tự đã xảy ra ở nhiều nơi khác, đặc biệt là ở các làng, nơi mối quan hệ giữa người dân và những kẻ đàn áp dân mang tính cá nhân hơn và mọi người biết nhau. Bộ đội thường phải nhốt cảnh sát Ngụy trong các nhà tù trước đây của chính họ và canh phòng cẩn mật để bảo vệ họ khỏi các nhóm người dân muốn xét xử họ”.
Thực tế này khiến chính quyền Cách mạng phải tiến hành việc đăng ký nhân thân, khai báo trình diện và cấp giấy cư trú. Tiếp nữa, chính quyền tổ chức các khóa học tập cải tạo tại chỗ hoặc tập trung. Đối với một số người, việc cải tạo có thể kéo dài vài ngày, với một số người khác có thể kéo dài vài tháng hoặc có lẽ vài năm. Chính sách này về sau bị không ít đối tượng ở phía bên kia phê phán là đàn áp nhưng không nhìn nhận thấy một thực tế rằng việc tạm cô lập một số nhóm người đặc biệt là quan quân chế độ cũ để tránh việc họ bị xử trái pháp luật, bị trả thù bởi chính người dân. Nếu không tách những người đã từng gây tội ác và có nợ máu với cộng đồng ra bằng cách tập trung cải tạo, có thể vô số những cuộc trả thù trên diện rộng đã diễn ra.
Sau này, Nhà nước Việt Nam đã chủ động để nhiều người thực sự muốn ra đi được ra đi một cách tự do và trật tự. Chính phủ đã đàm phán với Hoa Kỳ cho phép người dân đi theo diện HO, theo diện đoàn tụ và có quan điểm cởi mở đối với những người muốn tìm cơ hội ở quốc gia khác. Đối với những người trốn đi và bị kẹt ở các trại tỵ nạn không nước nào chấp nhận cho định cư, đời sống vô cùng khó khăn, Nhà nước Việt Nam đã chủ động đàm phán với Cao ủy Liên Hợp Quốc về Người tỵ nạn (UNHCR) và các quốc gia có người tỵ nạn để đưa họ trở lại Việt Nam, bố trí công ăn việc làm và nơi ăn chốn ở. Những người thù địch nhất kể cả những lãnh đạo cao nhất của chính quyền Sài Gòn cũ về sau cũng đều được tự do trở về nước sinh sống và làm việc dài hạn. Chính họ đều đã nhìn thấy và chứng kiến sự thay đổi không thể tưởng tượng được của đất nước cũng như thái độ rộng mở của chính quyền Việt Nam.
Có thể nói, quá trình di tản đã để lại không ít những mất mát cho người Việt, đặc biệt là những mất mát về sinh mạng con người. Nhà nước Việt Nam và mỗi người Việt Nam có lương tri đều thấy đau xót trước những mất mát này. Đó là những hệ quả đáng tiếc và dường như khó tránh khỏi trong bối cảnh chiến tranh và ly loạn.
Cho dù vậy, thời gian đã đi qua đủ dài để giờ đây chúng ta nhận rõ đâu là sự thật và đâu là những lời nói dối. Từ nhận thức này, những người chưa nhận thức đúng cần nhận thức lại. Mỗi người đều có thể mắc sai lầm nhưng nhận thức lại mới giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn. Những ai còn suy nghĩ lệch lạc về cuộc di tản của người Việt trước và sau giải phóng cần xem xét lại, bởi không có cuộc trả thù nào giữa người Việt với nhau mà chỉ có chính sách đại đoàn kết dân tộc, như chính một Chính ủy Trung tâm Biên Hòa đã nói với nhà báo Ý vào những ngày ngay sau giải phóng: “Chúng tôi đã tha thứ cho các phi công Mỹ đã ném bom xuống nhà cửa của chúng tôi, đốt cháy con chúng tôi. Tại sao chúng tôi không thể tha thứ cho những người Việt, những người đã làm theo lệnh của người Mỹ?”. Đó chính là tinh thần hòa giải của người Việt trong ngày vui lịch sử của dân tộc, ngày thống nhất 30 tháng 4 năm 1975./.
Ảnh độc: 48 giờ trước thời khắc giải phóng miền Nam 30.4.1975
Những hình ảnh do phóng viên quốc tế chụp đã ghi lại khoảnh khắc thành phố Sài Gòn 2 ngày cuối cùng trước khi được …
Ký ức ngày Giải phóng Miền Nam của người lính xe tăng anh hùng
Với ông Nguyễn Trần Đoàn, niềm vinh dự nhất được đóng góp một phần công sức bé nhỏ của mình vào chiến thắng của dân …
Xúc động những hình ảnh không thể nào quên về ngày 30.4 thống nhất đất nước
Ngày 30.4.1975 là một mốc son chói lọi của lịch sử dân tộc – tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975, đỉnh cao là …
Chiến Thắng Điện Biên (Nốt Chữ Cái)
Kỷ niệm ngày Chiến thắng Điện Biên Phủ 07/05/1954.
Nhạc và lời: Đỗ Nhuận.
Lời (giọng Đô trưởng???):
Lời 1:
Giải phóng Điện Biên, bộ đội ta tiến quân…ân trở…ơ về G4 E5 C5 D5, G4 A4 C5 D5 C5-A4 G4-A4 G4
Giữa…ưa mùa này hoa…a nở C5-A4 G4 G4 A4-G4 D4
Miền Tây Bắc tưng…ưng bừng vui F4 A4 C5 A4-G4 D4 G4
Bản…an mường…ương xưa nương lúa mới trồng, D4-F4 D4-F4 G4 A4 C5 A4 G4
Kìa đàn…an em…m bé giữa đồng nắm chúng tôi xoè hoa. G4 A4-G4 A4-C5 D5 C5 A4 C5 A4-G4 F4 G4.
Dọc đường chiến thắng ta…a tiến…iến về…ê, A4 A4 D5 D5 B4-A4 B4-D5 A4-G4,
Đoàn dân công tiền tuyến vẫy…ây chào pháo chúng tôi vượt qua. E4 G4 A4 A4 D5 B4-A4 G4 D5 B4-A4 G4 A4.
Súng…ung đại…ai bác quấn lá…a ngụy trang, từng…ưng đàn…an bươm bướm trắng rỡn lá…a ngụy trang. D5-C5 A4-C5 D5 D5 B4-A4 G4 A4, D4-F4 D4-F4 G4 A4 D5 D5 B4-A4 G4 A4.
Xiết…iết bao sướng vui từ ngày lên Tây Bắc, A4-G4(?) G4 A4 F4 C4 C4 F4 G4 A4,
Đồng bào nao nức mong đón ta trở về. F4 F4 G4 A4 F4 G4 F4 C4 D4.
Giờ chiến thắng ta…a đã về, D4 D5 D5 B4-A4 B4 A4,
Vui…ui mừng…ừng đón chúng ta…a tiến về. D5-C5 A4-C5 D5 D5 B4-A4 B4 A4.
Núi…ui sông…ông bừng lên. E5-G5 E5-D5 C5 D5.
Đất nước ta…a sáng ngời, cánh đồng Điện Biên cờ chiến thắng tưng…ưng bừng trên…ên trời. D5 D5 B4-A4 B4 A4, G4 E4 G4 A4 D4 D5 D5 B4-A4 G4 A4-G4 G4.
Lời 2:
Giải phóng miền Tây, bộ đội ta đã chúng tôi trưởng…ưởng thành, G4 E5 C5 D5, G4 A4 C5 D5 C5-A4 G4-A4 G4
Thắng…ăng trận Điện Biên…iên Phủ, C5-A4 G4 G4 A4-G4 D4
Càng tin quyết tâm…âm ở trên. F4 A4 C5 A4-G4 D4 G4
Đổ…ô mồ…ô hôi phá núi, bắc cầu, D4-F4 D4-F4 G4 A4 C5 A4 G4
Vượt rừng…ừng, qua…a suối, đắp đường thắng lợi…ợi về đây. G4 A4-G4 A4-C5 D5, C5 A4 C5 A4-G4 F4 G4.
Phương châm đánh chắc ta…a tiến…iến lên…ên, A4 A4 D5 D5 B4-A4 B4-D5 A4-G4,
Lực lượng như bão táp, quân…ân thù mấy cũng…ung phải tan. E4 G4 A4 A4 D5, B4-A4 G4 D5 B4-A4 G4 A4.
Vang…ang lừng…ưng tiếng súng khi…i mừng công, thoả…a lòng…ong ta dâng Bác bấy lâu…âu chờ mong. D5-C5 A4-C5 D5 D5 B4-A4 G4 A4, D4-F4 D4-F4 G4 A4 D5 D5 B4-A4 G4 A4.
Xiết…iết bao sướng vui nhìn đồng quê phơi phới, A4-G4(?) G4 A4 F4 C4 C4 F4 G4 A4,
Nông dân hăng hái khi chúng ta trở về. F4 F4 G4 A4 F4 G4 F4 C4 D4.
Ruộng đất chúng ta…a đã về, D4 D5 D5 B4-A4 B4 A4,
Vui…ui mừng…ừng đón chúng ta…a tiến về. D5-C5 A4-C5 D5 D5 B4-A4 B4 A4.
Chiến…iến sĩ…i Điện Biên. E5-G5 E5-D5 C5 D5.
Thế giới đang…ang đón mừng chiến dịch đại thắng lợi góp sức xây…ây dựng hoà…a bình. D5 D5 B4-A4 B4 A4 G4 E4 G4 A4 D4 D5 D5 B4-A4 G4 A4-G4 G4.
Nguồn nhạc khuông:
http://baicadicungnamthang.net/sheet/chien-thang-dien-bien-2
Cập nhật thông tin chi tiết về Cuộc Chiến Chấm Dứt 45 Năm Trước Qua Cái Nhìn Của Du Học Sinh! trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!