Xu Hướng 5/2023 # Đại Thắng Mùa Xuân 1975 # Top 10 View | Ictu-hanoi.edu.vn

Xu Hướng 5/2023 # Đại Thắng Mùa Xuân 1975 # Top 10 View

Bạn đang xem bài viết Đại Thắng Mùa Xuân 1975 được cập nhật mới nhất trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Đại thắng mùa Xuân 1975 kết thúc thắng lợi chặng đường 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975), đồng thời kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm chiến tranh giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc kể từ cách mạng tháng Tám năm 1945, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc.

Nhân kỷ niệm 45 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 – 30-4-2020), Thông tấn xã Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết: “Đại thắng mùa Xuân 1975 – Sức mạnh khát vọng hòa bình và thống nhất đất nước” của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Lê, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Khoảnh khắc lịch sử xe tăng Quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập, trưa 30/4/1975, đánh dấu thắng lợi trọn vẹn của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đỉnh cao của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài hơn hai thập niên (1954 – 1975), giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Ảnh: Trần Mai Hưởng/TTXVN

Sức chiến đấu kiên cường, bền bỉ toàn dân tộc

Năm 1954, thực dân Pháp bại trận tại Điện Biên Phủ, buộc phải ký kết Hiệp định Geneva (7/1954) rút khỏi Đông Dương. Tuy nhiên, ngay sau đó, thực hiện chính sách “lấp chỗ trống”, đế quốc Mỹ nhảy vào tiến hành chiến tranh xâm lược, âm mưu biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới, một căn cứ quân sự phục vụ cho chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng. Để thực hiện mưu đồ trên, Mỹ dựng lên chính quyền, quân đội tay sai, ra sức phá hoại Hiệp định Geneva, đàn áp phong trào cách mạng miền Nam.

Chỉ trong vòng 4 năm (1954 – 1958), cả miền Nam tổn thất 9/10 số cán bộ, đảng viên; gần 90 vạn đồng bào yêu nước bị bắt, tù đày; gần 20 vạn bị tra tấn, giết hại… Trước âm mưu, hành động xâm lược của địch, đất nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị – xã hội đối lập nhau: miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam còn nằm dưới sự đô hộ của chủ nghĩa đế quốc và tay sai.

Như vậy, khác với 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, kẻ thù của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến lần này là đế quốc Mỹ, đứng đầu thế giới tư bản chủ nghĩa với tiềm lực kinh tế, quân sự rất hùng mạnh. Để đương đầu, đánh thắng kẻ thù đó, đòi hỏi nhân dân Việt Nam phải có sức mạnh rất lớn – sức mạnh chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, hay nói một cách khác, đó là sức mạnh khát vọng hòa bình và thống nhất đất nước, tập trung cao độ trước hết ở đường lối kháng chiến.

Từ năm 1965, để cứu nguy cho chế độ Sài Gòn, Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh, quân một số nước đồng minh, nhiều loại vũ khí, trang bị cùng phương tiện chiến tranh hiện đại vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam; đồng thời mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ra miền Bắc Việt Nam.

Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương Đảng (khóa III) lần thứ 12 đã thêm một lần nữa khẳng định nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng thiêng của cả dân tộc, của nhân dân ta trên cả hai miền Nam, Bắc; từ đó đề ra quyết tâm: động viên lực lượng cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà.

Đường lối kháng chiến do Đảng đề ra đã đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước, thực sự trở thành ngọn cờ dẫn dắt toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta cùng nhau đoàn kết phát huy sức mạnh tổng hợp vì lý tưởng cách mạng cao đẹp mà lịch sử đặt ra. Sức mạnh đấu tranh nhờ đó được biểu hiện phong phú, nhân lên gấp bội, biến thành hành động thực tiễn qua nhiều phong trào thi đua yêu nước sôi nổi khắp cả nước, từ hậu phương đến tiền tuyến.

Xe tăng và bộ binh Quân đoàn 2 vượt sông tiến về Sài Gòn. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát

Điển hình như các phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, thanh niên “ba sẵn sàng”, phụ nữ “ba đảm đang”… ở miền Bắc; các phong trào “Bám đất, giữ làng”, “Một tấc không đi, một li không dời”, “Giết giặc lập công”, “Tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt”… ở miền Nam; hay quyết tâm “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “Xe chưa qua, nhà không tiếc”… trên tuyến chi viện chiến lược Bắc – Nam. Tất cả đều hướng đến mục tiêu độc lập, hòa bình và thống nhất non sông.

Một nhà sử học Mỹ đã nhận xét rằng: Lịch sử phải đánh giá họ (người Việt Nam – miền Nam cũng như miền Bắc) cao nhất về sức chiến đấu ngoan cường và dũng cảm của con người. Còn cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara thì thừa nhận: nước Mỹ thua trận vì đánh giá thấp sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam thúc đẩy họ đấu tranh cho giá trị và mục tiêu cao cả.

Bằng sức mạnh đó, trải qua gần 20 năm liên tục chiến đấu anh dũng kiên cường, bền bỉ, quân dân Việt Nam lần lượt từng bước đánh bại các chiến lược chiến tranh của kẻ thù: chiến tranh đơn phương, “tố cộng, diệt cộng” (1954 – 1960), “chiến tranh đặc biệt” (1961 – 1965), “chiến tranh cục bộ” (1965 – 1968), “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 – 1973), buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris (1973) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút hết quân viễn chinh về nước. Đây là thắng lợi cơ bản, mở ra bước ngoặt mới cho sự nghiệp kháng chiến.

Quyết tâm giành toàn thắng

Với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, tuy rút quân viễn chinh về nước, song đế quốc Mỹ lại lập ra bộ chỉ huy quân sự trá hình, tiếp tục viện trợ cho chính quyền, quân đội Sài Gòn ra sức phá hoại Hiệp định hòa bình vừa mới ký kết, hòng kéo dài chiến tranh xâm lược.

Về phía cách mạng, chúng ta thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Paris, nhưng trước hành động phá hoại trắng trợn, có hệ thống của địch, buộc nhân dân ta phải tiếp tục đấu tranh để giữ vững thành quả cách mạng, từ đó tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Hội nghị Trung ương Đảng (khóa III) lần thứ 21 (7-1973) đã khẳng định: bất kể trong tình huống nào, con đường giành thắng lợi của cách mạng Việt Nam vẫn là con đường bạo lực, do đó phải nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công để giành toàn thắng.

Đến cuối năm 1974, đầu năm 1975, cục diện chiến tranh có sự chuyển biến mau lẹ theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng. Đáp ứng yêu cầu cấp cách mạng đặt ra, Đảng họp Hội nghị Bộ Chính trị (30-9 – 7-10-1974) và Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng (18-12-1974 – 8-1-1975), chính thức hạ quyết tâm: Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đẩy mạnh đấu tranh quân sự, chính trị, kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng, toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta; tiến hành rất khẩn trương và hoàn thành mọi mặt công tác chuẩn bị, tạo điều kiện chín muồi, tiến hành tổng công kích tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam.

Thực hiện quyết tâm mà Bộ Chính trị đề ra, cả dân tộc “ra quân” trong mùa Xuân 1975 lịch sử. Chưa bao giờ, khát vọng hòa bình, thống nhất non sông của quân dân ta diễn ra sục sôi cao trào như thời điểm này. Chỉ ba tháng đầu năm 1975, hậu phương miền Bắc đã dốc sức đưa vào chiến trường miền Nam gần 12 vạn cán bộ, chiến sĩ; chi viện 230 nghìn tấn vật chất các loại, bảo đảm 81% vũ khí, 60% xăng dầu, 65% thuốc men, 85% xe vận tải…

Sự chi viện từ miền Bắc cho miền Nam thời kỳ này không chỉ tạo nên sức mạnh áp đảo về thế và lực so với quân địch, phục vụ tốt yêu cầu Tổng tiến công và nổi dậy, mà còn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng vùng giải phóng trên tất cả các mặt: kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục, y tế… chuẩn bị cho việc tiếp quản vùng giải phóng khi chiến tranh kết thúc.

Được sự chi viện to lớn của miền Bắc, trên khắp chiến trường miền Nam, quân dân ta ra sức chuẩn bị các mặt cho trận quyết chiến quyết định cuối cùng. Chưa bao giờ, các phong trào đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận, ngoại giao diễn ra sôi nổi như thời gian này, đẩy chính quyền, quân đội Sài Gòn lún sâu hơn vào tình thế khó khăn, hoàn toàn bị cô lập. Sức mạnh chiến đấu từ hơn 20 năm được dồn lại cho thời khắc lịch sử này.

Sau một thời gian chuẩn bị mọi mặt tạo thế, tạo lực, ngày 4-3-1975, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân dân ta bắt đầu, diễn ra với ba đòn tiến công chiến lược lớn: Chiến dịch Tây Nguyên (từ 4-3 đến 3-4-1975), tiến công giải phóng Huế – Đà Nẵng (từ 21-3 đến 29-3-1975) và Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ 26-4 đến 30-4-1975). 

Bốn chiến sĩ Sư đoàn 304 (Quân đoàn 2) – những người đầu tiên vào Dinh Độc lập và cắm cờ trên nóc phủ Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn trưa 30-4-1975. Ảnh: Đinh Quang Thành/TTXVN

Trưa 30-4-1975, quân ta tiến vào Dinh Độc lập, bắt sống toàn bộ nội các chính quyền trung ương địch. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, kết thúc thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và cả chặng đường 30 năm đấu tranh trường kỳ gian khổ (1945 – 1975). Đây chính là một trong những chiến công tiêu biểu nhất, huy hoàng nhất trong tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam.

Nhân dịp cả nước chào mừng kỷ niệm 45 năm Đại thắng mùa Xuân 1975, chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ, toàn diện hơn về ý nghĩa tầm vóc sự kiện lịch sử trọng đại này. Từ đó, mỗi chúng ta càng nêu cao niềm tự hào dân tộc, biết trân trọng gìn giữ hòa bình, gìn giữ chủ quyền, từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc; ra sức thi đua lao động, học tập, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Theo Trần Hiền Hạnh (TTXVN)

Đại Thắng Mùa Xuân Năm 1975: Sức Mạnh Đại Đoàn Kết

Trong cuộc trò chuyện với phóng viên báo Kinh tế & Đô thị, chúng tôi Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng cho rằng, 45 năm sau chiến thắng vĩ đại ấy, có rất nhiều bài học đến bây giờ vẫn còn giá trị thời sự, trong đó bài học lớn nhất chính là nêu cao tinh thần đại đoàn kết dân tộc.

Bài học từ sự đoàn kết, sáng tạo Về ý nghĩa của Chiến thắng mùa Xuân năm 1975 đã có nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu cả trong nước và quốc tế đề cập. Với tư cách là người nghiên cứu lịch sử, theo ông đâu là yếu tố quyết định đến thắng lợi lịch sử trọng đại này?

PGS. TS Nguyễn Mạnh Hà:Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là thành quả của ý chí đoàn kết và tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của toàn thể dân tộc Việt Nam. Tiêu biểu cho ý chí đó và cũng là linh hồn của cuộc kháng chiến chính là Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhớ lại năm 1969, trong thư chúc Tết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có hai câu thơ vừa là mệnh lệnh chiến đấu, vừa dự báo viễn cảnh niềm vui sum họp khi đất nước thống nhất: “Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào! Bắc Nam sum họp, Xuân nào vui hơn”. Bằng Hiệp định Paris tháng 1/1973, chúng ta đã buộc Mỹ phải rút khỏi Việt Nam. Bước thứ hai chính là đánh đổ chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa. Thắng lợi này đã thể hiện được tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cũng thể hiện quyết tâm của toàn thể Nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến trường kỳ 21 năm chịu rất nhiều hy sinh, gian khổ. Cuối cùng, miền Nam đã được giải phóng, non sông thu về một mối. Thời khắc lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh Độc lập đánh dấu sự toàn thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Đứng về góc độ nghiên cứu lịch sử, theo tôi để chiến thắng một kẻ thù lớn mạnh về quân sự cũng như về kinh tế như đế quốc Mỹ, nếu chúng ta lấy lực lượng ra so sánh thì không thể được, khi tương quan lực lượng về quân sự, kinh tế, khoa học kỹ thuật của kẻ thù gấp chúng ta nhiều lần. Vì thế, chúng ta phải tạo nên sức mạnh tổng hợp, bắt nguồn từ lòng yêu nước của người dân, từ truyền thống đánh giặc của cha ông, từ đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và quyết tâm chiến đấu, chiến thắng của mọi người Việt Nam. Đây là sức mạnh của sự nghiệp chính nghĩa. Lúc đó, ai đi chiến đấu cũng nghĩ là vì đất nước nên có thể chấp nhận hy sinh. Với một đất nước, một dân tộc gan góc như thế thì không kẻ thù nào có thể đánh bại được.

Thực tế đã chứng minh như vậy. Chúng ta đã đánh bại được thế lực xâm lược lớn mạnh nhất của thời đại. Đây là thành quả của sự kết hợp sức mạnh tổng hợp trên các mặt trận chính trị, ngoại giao và huy động được lòng yêu nước, sự đoàn kết của toàn dân. Theo tôi, chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn là chiến dịch được chuẩn bị bài bản nhất, lực lượng đông đảo nhất và đã giành chiến thắng vang dội nhất trong một thời gian ngắn nhất. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kéo dài 21 năm đã kết thúc oanh liệt và hào hùng như vậy.

45 năm đã qua, nhìn lại những chiến công ấy, theo ông, đâu là những bài học để lại cho thế hệ hôm nay và cả thế hệ tiếp theo?

PGS. TS Nguyễn Mạnh Hà: Thực tiễn cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã chứng minh, khi “ý Đảng” hợp với “lòng dân” thì sẽ hội tụ được sức mạnh, làm cho “thế trận lòng dân” càng được phát huy cao độ, tạo nên cao trào cách mạng quyết tâm giành toàn thắng. Tôi nghĩ rằng, thế hệ hôm nay cần học bài học từ lịch sử, từ sự đoàn kết, đồng tâm, nhất trí, sáng tạo, quyết tâm chiến đấu để chiến thắng kẻ thù xâm lược, thì giờ đây là quyết tâm chiến đấu, chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu để đưa đất nước phát triển. Người Việt Nam bản chất rất năng động, thông minh, sáng tạo, nếu tạo được sự đồng tâm, nhất trí giữa lãnh đạo với quần chúng Nhân dân thì mọi việc đều có thể thực hiện tốt đẹp. Dựa được vào dân, thực hiện đúng khẩu hiệu của dân, do dân, vì dân thì tôi nghĩ không có việc gì mà chúng ta không thể vượt qua.

Khi ý Đảng hợp với lòng dân Nhìn từ thực tiễn, theo ông, những bài học đó, đặc biệt là bài học về tinh thần đại đoàn kết đang được vận dụng vào công cuộc đổi mới đất nước hiện nay thế nào?

PGS. TS Nguyễn Mạnh Hà: Đúng như Bác Hồ đã nói: “Sự nghiệp cách mạng bắt đầu từ dân, cuối cùng cũng vì dân”. Đại đoàn kết và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc là bài học xuyên suốt tiến trình lịch sử từ khi Đảng thành lập cho đến khi Cách mạng Tháng Tám thành công, đến kháng chiến chống Pháp rồi kháng chiến chống Mỹ và trong suốt quá trình Đảng tiến hành công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay. Theo tôi, những bài học để giành thắng lợi trong chiến tranh của 45 năm trước, đang được Đảng vận dụng sáng tạo vào công cuộc đổi mới đất nước ngày hôm nay và đang cho thấy những kết quả đáng tự hào.

Đảng ta đã phát huy được sức mạnh, ý chí quyết tâm của người Việt Nam trong kháng chiến chống ngoại xâm vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay. Đồng thời, vận dụng sáng tạo bài học đoàn kết, đó là đoàn kết dân tộc, đoàn kết trong Đảng, đoàn kết quốc tế, nhờ sự đoàn kết ấy chúng ta mới có những thành công trong sự nghiệp đổi mới. Năm 1986, bình quân thu nhập đầu người của người Việt Nam chỉ 120 USD, đến năm 2019, Việt Nam đã trở thành một quốc gia có quy mô dân số gần 100 triệu người với mức thu nhập bình quân 2.800 USD/người. Về chính trị, chúng ta đã tham gia thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc và gần 200 nước đã đặt quan hệ ngoại giao với chúng ta. Đồng thời, chúng ta đã tham gia vào tất cả các tổ chức quốc tế lớn, trở thành một thành viên tích cực, có trách nhiệm trong các hoạt động của cộng đồng quốc tế. Vị thế và vai trò của Việt Nam đang ngày càng được nâng cao.

Từ những thành quả đã có, điều quan trọng nhất hiện nay, theo tôi, Đảng phải tiếp tục phát huy, khơi dậy được khả năng sáng tạo của Nhân dân, đoàn kết và tạo nên sức mạnh của cả dân tộc. Mà muốn đoàn kết thì ý Đảng phải hợp với lòng dân, ý Đảng mà ngược với lòng dân hiệu quả công việc không đạt được. Tức là trong chủ trương, chính sách của mình, Đảng, Nhà nước phải có điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn, phù hợp với tình hình quốc tế, phản ánh được mong đợi của người dân. Tức là Đảng, Nhà nước cần lắng nghe ý kiến phản biện của người dân, chọn lọc, tiếp thu đưa vào những quyết sách những gì tinh tuý có thể tiếp thu được, áp dụng được. Bởi lịch sử đã chứng minh bất kể sự kiện gì nếu không có sự tham gia của người dân, sự đồng thuận của người dân rất khó thực hiện. Do đó, phải biến khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thành thực tiễn. Và phải thêm điều nữa là dân được hưởng, chứ chỉ biết, bàn, làm, kiểm tra mà không được hưởng cái gì thì thiếu hẳn một vế quan trọng. Đừng để khẩu hiệu đó chỉ là hình thức nữa mà nó phải thực chất.

Với “cuộc chiến” đang rất thời sự hiện nay là chống dịch Covid-19, ông đánh giá thế nào về việc phát huy tinh thần đại đoàn kết, “thế trận lòng dân” trong đẩy lùi dịch bệnh?

PGS. TS Nguyễn Mạnh Hà: Sau 45 năm đất nước hòa bình lập lại, Đảng, Chính phủ ta lại mới dùng những từ “chống giặc” trong những văn bản chỉ đạo chính thức của mình. Với những gì diễn ra trong 3 tháng qua và đặc biệt là những ngày gần đây cho thấy những chủ trương, giải pháp của Việt Nam khi “đánh giặc” vô hình Covid-19 đang có hiệu quả và được quốc tế ghi nhận. Trong đó, theo tôi, quyết sách đúng đắn là chúng ta đã huy động toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đoàn kết một lòng, cùng chung tay quyết chiến thắng đại dịch. Chính sự phối hợp nhịp nhàng cùng tinh thần quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị đã tạo nên sức mạnh kiên cường.

Theo dõi dư luận tôi thấy, người dân từ hoang mang lo lắng, hoảng loạn, đã nhanh chóng lấy lại cân bằng và an tâm tin tưởng hơn khi các giải pháp như khoanh vùng, cách ly, sàng lọc, điều trị tích cực được thực thi hiệu quả. Chính sự đồng lòng của cả hệ thống chính trị đã tạo nên sự đồng thuận cao trên phạm vi toàn xã hội, thực sự là “ý Đảng – lòng dân” đã gặp nhau. Vì thế đã khơi dậy, nâng cao niềm tin đối với Đảng, Nhà nước, đã hình thành nên “phong trào cách mạng” rộng rãi trong Nhân dân trên cuộc đấu tranh “chống dịch như chống giặc” này. Tôi thấy rất nhiều phong trào, tấm gương của tập thể, cộng đông và cá nhân đáng quý đã xuất hiện như chung sức, đồng lòng, giúp nhau vượt qua khó khăn, tình nguyện tham gia vào tuyến đầu chống dịch… Đặc biệt, người dân đã chấp hành nghiêm các quy định của cơ quan chức năng về phòng, chống dịch, tạo nên “thế trận lòng dân” vững chắc để chiến thắng dịch bệnh. Tôi tin rằng, với việc phát huy tinh thần đoàn kết toàn dân tộc một cách mạnh mẽ trong lúc đất nước gặp khó khăn này, chúng ta sẽ chiến thắng “giặc covid” trong một ngày không xa.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

Kỷ Niệm 44 Năm Ngày Giải Phóng Miền Nam: Đại Thắng Mùa Xuân 1975

Nhân dịp kỉ niệm 44 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2019), Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) xin trân trọng giới thiệu bài viết “Đại thắng mùa Xuân 1975 – Nghệ thuật kết thúc chiến tranh độc đáo, sáng tạo” của Đại tá Trần Tiến Hoạt-nguyên Phó Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống Mỹ-Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

Chỉ đạo chiến lược kiên quyết, sắc bén, linh hoạt

Do chịu thất bại nặng nề trên chiến trường và phong trào phải đối chiến tranh dâng cao cả trong và ngoài nước, tháng 1/1973, Mỹ buộc phải ký kết Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút quân về nước. Nhưng với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, Mỹ tiếp tục viện trợ kinh tế, quân sự chỉ đạo chính quyền, quân đội Sài Gòn phá hoại Hiệp định vừa ký kết, mở hàng ngàn cuộc hành quân “bình định, lấn chiếm”, các chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ” nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng miền Nam. Chính phủ Mỹ còn thi hành chính sách ngoại giao xảo quyệt, thỏa thuận với các nước lớn xã hội chủ nghĩa cắt giảm viện trợ, gây áp lực hạn chế thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trước âm mưu và hành động chiến tranh mới của địch, cách mạng miền Nam gặp những khó khăn, tổn thất nhất định. Nhiều địa phương tỏ ra lúng túng, nhấn mạnh đến hòa bình, hòa hợp, buông lỏng tư tưởng chiến lược tiến công nên trên một số địa bàn bị mất đất, mất dân. Chỉ tính riêng trong năm 1973, địch đóng thêm 500 đồn bốt, chiếm thêm 70 xã và gần 1.000 ấp, kiểm soát thêm 65 vạn dân…

Nhân dân Sài Gòn đổ ra đường, nồng nhiệt chào đón Quân giải phóng tiến vào thành phố. Ảnh: Hứa Kiểm -TTXVN

Nắm bắt tình hình trên, tháng 7/1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 nhấn mạnh: Bất kể trong tình huống nào, con đường giành thắng lợi của cách mạng cũng là sử dụng bạo lực cách mạng, do đó phải nắm vững chiến lược tiến công, kiên quyết đẩy mạnh đấu tranh trên ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao để giành toàn thắng. Thực hiện nghị quyết của Đảng đề ra, quân dân ta trên chiến trường đã kiên quyết mở những cuộc phản công, tiến công trực tiếp giáng trả mọi hành động chiến tranh, tiêu hao, tiêu diệt một phần sinh lực địch, đánh bại cơ bản kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” của chúng, bảo vệ, mở rộng vùng giải phóng, tạo ra thế và lực mới cho kháng chiến. Đặc biệt, ta giành thắng lợi lớn trong chiến dịch Đường 14 – Phước Long (từ ngày 13/12/1974 đến ngày 6/1/1975) loại khỏi vòng chiến đấu trên 4.000 địch, giải phóng toàn tỉnh Phước Long (Đông Nam Bộ) với trên 50.000 dân. Chiến thắng này cho thấy khả năng chiến đấu của quân chủ lực ta đã hơn hẳn quân chủ lực của địch, đồng thời cho thấy khả năng phản ứng rất hạn chế của Mỹ, tạo thêm cơ sở cho cơ quan chỉ đạo chiến lược cách mạng hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Cuối năm 1974, đầu năm 1975, so sánh lực lượng ở miền Nam có sự chuyển biến mau lẹ theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng, trên cơ sở đó, Hội nghị Bộ Chính trị (từ 30/9 đến 7/10/1974) và Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng (từ 18/12/1974 đến 8/1/1975) đã ra nghị quyết lịch sử, hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước trong thời gian 2 năm (1975 – 1976). Theo kế hoạch đề ra, trong năm 1975, cách mạng sẽ tranh thủ thời cơ bất ngờ tiến công địch trên quy mô lớn, rộng khắp, tạo tiền đề để trong năm 1976 tiến hành tổng công kích-tổng khởi nghĩa giành toàn thắng. Tuy đề ra kế hoạch 2 năm, nhưng Bộ Chính trị cũng chỉ rõ: Nếu thời cơ đến sớm thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Về phương hướng, yêu cầu đặt ra, Bộ Chính trị nhấn mạnh: cần tranh thủ thời cơ thực hiện tổng công kích-tổng khởi nghĩa, phải đánh thắng nhanh để giảm thiệt hại về người và của cho nhân dân, đồng thời giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hóa, giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh.

Đây thực sự là một sáng tạo lớn trong nghệ thuật chỉ đạo kết thúc chiến tranh, thể hiện tầm cao trí tuệ, tư tưởng và truyền thống nhân văn sâu sắc của dân tộc Việt Nam, điều đó vượt lên trên mọi toan tính của các nhà hoạch định chính sách phía Mỹ, đồng thời đập tan những luận điệu xuyên tạc về “các cuộc tắm máu” mà các thế lực thù địch, phản động ở trong và ngoài nước rêu rao. Trên thực tế khi bước vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, nắm bắt kịp thời những diễn biến của chiến trường, Bộ Chính trị không ngừng bổ sung quyết tâm chiến lược, quyết định rút ngắn thời gian: giải phóng hoàn miền Nam ngay trong năm 1975 (cuộc họp ngày 18/3/1975), giải phóng hoàn miền Nam trước mùa mưa năm 1975 (cuộc họp ngày 25/3/1975), giải phóng hoàn miền Nam trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là ngay trong tháng 4 năm 1975 (cuộc họp ngày 1/4/1975).

Thực hành tổng tiến công và nổi dậy toàn diện, triệt để, nhanh gọn

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 của quân dân Việt Nam bắt đầu từ ngày 4/3/1975 và kết thúc vào ngày 30/4/1975, trong đó tiến công quân sự đóng vai trò quyết định với ba chiến dịch chiến lược liên tục về thời gian và liên kết về không gian đi đến đánh sập quân đội Sài Gòn. Mỗi chiến dịch chiến lược lại có cách thức tổ chức thực hiện độc đáo, sáng tạo khác nhau.

Chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4/3 đến ngày 3/4/1975) là đòn giáng mở đầu Tổng tiến công và nổi dậy nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng các tỉnh nam Tây Nguyên, mở rộng hành lang nối liền Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ và đồng bằng Khu 5, thực hiện chia cắt chiến lược, tạo cục diện mới cho chiến trường. Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên xác định trận tiến công Thị xã Buôn Ma Thuột là trận then chốt. Lực lượng cách mạng hoàn toàn áp đảo. Ta sử dụng cách đánh mới: tổ chức các mũi đột kích binh chủng hợp thành kết hợp với các đơn vị đặc công và bộ binh bí mật triển khai trước đánh thẳng vào trung tâm thị xã, nhanh chóng tiêu diệt cơ quan chỉ huy đầu não địch rồi mới phát triển trở ra bên ngoài thị xã. Ngày 10 tháng 3 năm 1975, tiếng súng đánh chiếm Buôn Ma Thuột bắt đầu. Đại bộ phận các đơn vị bộ binh cơ giới, xe tăng thọc sâu tại các vị trí chờ đợi từ xa trên các hướng, các trục đường khác nhau theo lệnh vượt qua các tuyến vòng ngoài ào ạt đánh chiếm những mục tiêu chủ yếu trong thị xã. Có những đơn vị phải vượt qua chặng đường dài 30-40 km nhưng vẫn bảo đảm thời gian hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đòn tiến công đã làm cho Mỹ, chính quyền Sài Gòn hoàn toàn bị bất ngờ, choáng váng. Mọi sự kháng cự và ứng cứu của địch đều bị đập tan. Đến trưa ngày 11 tháng 3, quân ta hoàn toàn làm chủ thị xã. Việc đánh chiếm giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột trong hơn một ngày đêm là một trong những chiến công vang dội của cách mạng miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trực tiếp mở ra thắng lợi của toàn chiến dịch Tây Nguyên nói riêng, toàn bộ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 nói chung.

Tiếp theo là đòn tiến công giải phóng Huế – Đà Nẵng (26/3 đến 29/3/1975). Sau khi mất Tây Nguyên, chính quyền và quân đội Sài Gòn rơi vào tình trạng hoang mang, rối loạn. Địch tập trung quân về giữ thành phố Huế và khu liên hợp quân sự Đà Nẵng, chờ đợi viện binh từ phía Nam ra phản công. Nhạy bén tranh thủ thời cơ, ta nhanh chóng mở cuộc tiến công trong hành tiến giải phóng Huế (26/3), sau đó phát triển thành chiến dịch tiến công quy mô lớn bằng thế hợp vây của ba cánh quan từ ba hướng Bắc, Tây, Nam đánh vào Đà Nẵng, phá tan thế co cụm, diệt và làm tan rã 10 vạn địch, làm thay đổi hẳn tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường.

Đánh chiếm Dinh Độc Lập. Ảnh: Mai Hưởng – TTXVN

Đến những ngày cuối tháng 4 năm 1975, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam dồn sức cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng: Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Bộ Tư lệnh chiến dịch xác định 5 mục tiêu quan trọng nhất cần đánh chiếm bằng được: Bộ Tổng tham mưu, Dinh Độc lập, Biệt khu thủ đô, Tổng nha cảnh sát, sân bay Tân Sơn Nhất. Về mặt lực lượng, quân ta vẫn chiếm ưu thế áp đảo. Nhưng đánh bằng cách nào có hiệu lực nhất, để vừa phát huy hết sức mạnh của tất cả lực lượng, giành thắng lợi nhanh nhất, vừa giảm thiểu được sự tàn phá của chiến tranh (giữ được Sài Gòn hầu như nguyên vẹn) là vấn đề đặt ra cấp thiết. Lúc này, trong nội thành Sài Gòn, địch tổ chức phòng thủ thành 5 liên khu do toàn bộ lực lượng cảnh sát, phòng vệ dân sự phụ trách. Ở vòng ngoài, chúng bố trí các sư đoàn chủ lực mạnh muốn ngăn chặn quân ta từ xa 30-50km, đề phòng khi bị tiến công, chúng sẽ từng bước lùi dần và co cụm về Sài Gòn “tử thủ”. Bộ Tư lệnh chiến dịch sử dụng cách đánh hết sức linh hoạt, sáng tạo, đó là dùng một bộ phận lực lượng thích hợp trên từng hướng, đủ sức hình thành bao vây, tiêu diệt, làm tan rã tại chỗ các sư đoàn chủ lực của địch ở vòng ngoài; đồng thời dùng đại bộ phận lực lượng nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm các địa bàn then chốt ven đô, mở đường cho các binh đoàn đột kích cơ giới hóa mạnh đã được tổ chức chặt chẽ, tiến nhanh theo các trục đường lớn đánh thẳng vào 5 mục tiêu đã được lựa chọn trong nội thành. Với cách đánh như vậy, quân ta hoàn toàn tập trung được sức mạnh để đánh vào các mục tiêu chủ yếu đã lựa chọn kết hợp với tiêu diệt địch ở vòng ngoài không cho địch trong ngoài ứng cứu làm giảm bước tiến quân của ta.

Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử thắng lợi vẻ vang đã khẳng định cho cách đánh này là hoàn toàn đúng đắn. Đặc biệt, cách mạng đã giữ được thành phố Sài Gòn hầu như nguyên vẹn. Đó là một thành công to lớn mà cả thế giới thấy kinh ngạc.

Phối hợp chặt chẽ với các đòn quân sự then chốt là các cuộc tiến công và nổi dậy của quân dân các địa phương khắp chiến trường (đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long) theo phương thức xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh. Đến ngày 2/5/1975, miền Nam nước ta hoàn toàn giải phóng.

Như vậy, trong một thời gian ngắn (55 ngày đêm), cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân Việt Nam đã giành thắng lợi hoàn toàn. Cách mạng đã diệt và làm tan rã hơn 1 triệu quân chủ lực và khoảng 1,5 triệu quân thuộc lực lượng phòng vệ dân sự của địch, đập tan bộ máy chính quyền và quân đội Sài Gòn, giải phóng miền Nam, kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; đồng thời kết thúc vẻ vang cuộc trường chinh 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc (1945-1975), mở ra kỉ nguyên mới của dân tộc Việt Nam: cả nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 chính là “cột mốc vàng” của lịch sử dân tộc, khẳng định nét độc đáo, sáng tạo trong nghệ thuật chỉ đạo kết thúc chiến tranh của Đảng Lao động Việt Nam phù hợp với yêu cầu của thời cơ quân sự, thời cơ chính trị và hơn hết khẳng định cho trí tuệ, tài thao lược Việt Nam trong “cuộc đụng đầu lịch sử” chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Đề xuất

Vbt Lịch Sử 9 Bài 31: Việt Nam Trong Năm Đầu Sau Đại Thắng Xuân 1975

VBT Lịch Sử 9 Bài 31: Việt Nam trong năm đầu sau đại thắng xuân 1975

Bài 1 trang 119 VBT Lịch sử 9: Điền vào bảng kiến thức phù hợp về tình hình Miền Bắc và Miền Nam sau Đại thắng mùa xuân 1975.

Trả lời:

Miền Bắc

– cách mạng xã hội chủ nghĩa đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện.

– những cơ sở vật chất – kĩ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội bước đầu được xây dựng

– Hậu quả từ cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quâ của Mĩ để lại nặng nề. → quá trình tiến lên của đất nước bị chậm lại nhiều năm.

Miền Nam

– Miền Nam được giải phóng hoàn toàn. Chế độ thực dân mới của Mĩ và bộ máy chính quyền Sài Gòn trung ương sụp đổ.

– Cơ sở của chính quyền Sài Gòn tại các địa phương vẫn còn tồn tại.

– Nền kinh tế Miền Nam phát triển mất cân đối, lệ thuộc nặng nề vào viện trợ của nước ngoài.

– Hệ quả của chính sách văn hóa ngu dân của Đế quốc Mĩ để lại rất nặng nề: tỉ lệ người mù chữ cao; trong xã hội phổ biến các tệ nạn: cờ bạc, ma túy, mãi dâm…

Bài 2 trang 119 VBT Lịch sử 9:

Trả lời:

– Khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế – xã hội.

– Hoàn thành nghĩa vụ quốc tế đối với Lào và Cam-pu-chia

– Đến năm 1976, căn bản hoàn thành nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế:

+ Diện tích trồng trọt tăng so với năm 1975.

+ Nhiều công trình, nhà máy được mở rộng, xây mới.

+ Sản lượng các sản phẩm đều vượt mức trước chiến tranh.

+ sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế phát triển mạnh.

– Có nhiều đóng góp tích cực đối với sự phát triển của cách mạng Lào và Cam-pu-chia.

Bài 3 trang 120 VBT Lịch sử 9: Hãy đánh dấu X vào ô trống trước ý trả lời đúng về chủ trương, biện pháp của Đảng và chính quyền cách mạng ở Miền Nam nhằm thực hiện các nhiệm vụ cấp bách trong năm đầu dau đại thắng mùa xuân 1975.

Trả lời:

Bài 4 trang 120-121 VBT Lịch sử 9: Quốc hội khóa VI họp kì họp thứ nhất (từ ngày 24-6 đến ngày 3-7-1976) dã có những quyết định gì về một nước Việt Nam thống nhất vè về cơ cấu tổ chức của nhà nước Việt Nam thống nhất đầu tiên?

Trả lời:

a. Về một nước Việt Nam thống nhất.

– Quyết định lấy tên nước ta là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

– Thông qua chính sách đối nội và đối ngoại.

– Quyết định: Quốc kì – Cờ đỏ sao vàng; Quốc ca – Tiến quân ca; Quốc huy mang dòng chữ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

– Quyết định: Hà Nội là thủ đô; đổi tên thành phố Sài Gòn – Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh.

b. Về cơ cấu tổ chức nhà nước Việt Nam thống nhất đầu tiên.

– Ở trưng ương.

– Bầu các cơ quan, chức vụ lãnh đạo cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

– Bầu ban dự thảo Hiến pháp.

– ở địa phương.

– Tổ chức thành 3 cấp chính quyền: Tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương; Huyện và tương đương; Xã và tương đương.

– Bầu hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân ở các cấp chính quyền.

Bài 5 trang 121 VBT Lịch sử 9: Quá trình hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã trải qua những bước như thế nào? Hãy đánh dấu X vào ô trống trước ý trả lời đúng.

Trả lời:

Bài 6 trang 121 VBT Lịch sử 9: Việc thực hiện những nhiệm vụ cấp bách trước mắt và hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước trong năm đầu sau kháng chiến chống Mĩ thắng lợi có ý nghĩa gì? Hãy đánh dấu X vào ô trống trước ý trả lời đúng.

Trả lời:

x

Nước ta đã thống nhất về mặt nhà nước, tạo ra những điều kiện chính trị cơ bản để phát huy sức mạnh toàn diện của đất nước, những khả năng to lớn để bảo vệ tổ quốc và mở rộng quan hệ đối ngoại.

Cập nhật thông tin chi tiết về Đại Thắng Mùa Xuân 1975 trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!