Bạn đang xem bài viết Đề Tài: Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 4 Giải Toán Có Lời Văn được cập nhật mới nhất trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Toán học có vị trí rất quan trọng phù hợp với cuộc sống thực tiễn đó cũng là công cụ cần thiết cho các môn học khác và để giúp học sinh nhận thức thế giới xung quanh, để hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn.
Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn toán rất to lớn, nó có khả năng phát triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề có suy luận, có khoa học toàn diện, chính xác, có nhiều tác dụng phát triển trí thông minh, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt.góp phần giáo dục ý chí nhẫn nại, ý chí vượt khóTừ vị trí và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của môn toán vấn đề đặt ra cho người dạy là làm thế nào để giờ dạy – học toán có hiệu quả cao, học sinh được phát triển tính tích cực, chủ động sáng tạo trong việc chiếm lĩnh kiến thức toán học. Vậy giáo viên phải có phương pháp dạy học như thế nào? Để truyền đạt kiến thức và khả năng học bộ môn này tới học sinh tiểu học.
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TÂN HIỆP TRƯỜNG TIỂU HỌC TÂN AN 5 ˜–µ—™ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 4 GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN Người thực hiện: Võ Hoàng Anh Chức vụ: Giáo viên chủ nhiệm lớp 4C Năm học 2011 - 2012 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 4 GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN Họ và tên: Võ Hoàng Anh Chức vụ: Giáo viên Đơn vị: Trường tiểu học Tân An 5 I: Lời nói đầu 1/ Lí do chọn đề tài: Toán học có vị trí rất quan trọng phù hợp với cuộc sống thực tiễn đó cũng là công cụ cần thiết cho các môn học khác và để giúp học sinh nhận thức thế giới xung quanh, để hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn. Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn toán rất to lớn, nó có khả năng phát triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề có suy luận, có khoa học toàn diện, chính xác, có nhiều tác dụng phát triển trí thông minh, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt...góp phần giáo dục ý chí nhẫn nại, ý chí vượt khóTừ vị trí và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của môn toán vấn đề đặt ra cho người dạy là làm thế nào để giờ dạy - học toán có hiệu quả cao, học sinh được phát triển tính tích cực, chủ động sáng tạo trong việc chiếm lĩnh kiến thức toán học. Vậy giáo viên phải có phương pháp dạy học như thế nào? Để truyền đạt kiến thức và khả năng học bộ môn này tới học sinh tiểu học. Theo chúng tôi các phương pháp dạy học bao giờ cũng phải xuất phát từ vị trí mục đích và nhiệm vụ mục tiêu giáo dục của môn toán ở bài học nói chung và trong giờ dạy toán lớp 4 nói riêng. Nó không phải là cách thức truyền thụ kiến thức toán học, rèn kỹ năng giải toán mà là phương tiện tinh vi để tổ chức hoạt động nhận thức tích cực, độc lập và giáo dục phong cách làm việc một cách khoa học, hiệu quả cho học sinh tức là dạy cách học. Vì vậy giáo viên phải đổi mới phương pháp và các hình thức dạy học để nâng cao hiệu quả dạy - học. Từ đặc điểm tâm sinh lý học sinh tiểu học là dễ nhớ nhưng mau quên, sự tập trung chú ý trong giờ học toán chưa cao, trí nhớ chưa bền vững thích học nhưng chóng chán. Vì vậy giáo viên phải làm thế nào để khắc sâu kiến thức cho học sinh và tạo ra không khí sẵn sàng học tập, chủ động tích cực trong việc tiếp thu kiến thức. Xuất phát từ cuộc sống hiện tại. Đổi mới của nền kinh tế, xã hội, văn hoá, thông tin...đòi hỏi con người phải có bản lĩnh dám nghĩ dám làm năng động chủ động sáng tạo có khả năng để giải quyết vấn đề. Để đáp ứng các yêu cầu trên trong giảng dạy nói chung, trong dạy học Toán nói riêng cần phải vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học để nâng cao hiệu quả dạy - học. Hiện nay toàn ngành giáo dục nói chung và giáo dục tiểu học nói riêng đang thực hiện yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tính cực của học sinh làm cho hoạt động dạy trên lớp "nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả". Để đạt được yêu cầu đó giáo viên phải có phương pháp và hình thức dạy học để nâng cao hiệu quả cho học sinh, vừa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi tiểu học và trình độ nhận thức của học sinh. Để đáp ứng với công cuộc đổi mới của đất nước nói chung và của ngành giáo dục tiểu học nói riêng. Trong chương trình môn toán tiểu học, giải toán có lời văn giữ một vai trò quan trọng. Thông qua việc giải toán các em thấy được nhiều khái niệm toán học. Như các số, các phép tính, các đại lượng, các yếu tố hình học...đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các sự kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua việc giải toán đã rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính của con người mới. Có ý thức vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, làm việc có kế hoạch, thói quen xét đoán có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo, giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưa điểm, thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp học sinh phát huy những mặt đạt được và khắc phục những mặt thiếu sót. Chính vì vậy việc đổi mới phương pháp dạy toán có lời văn ở cấp tiểu học chung và lớp 4 nói riêng là một việc rất cần thiết mà mỗi giáo viên tiểu học cần phải nâng cao chất lượng học toán cho học sinh. 2/ Sơ lược lịch sử vấn đề Nói đến hoạt động dạy và học thì không thể không nói đến phương pháp dạy và phương pháp học, hai hoạt động đó diễn ra song song. Nếu chỉ chú ý đến truyền thụ cho HS mà không chú ý đến việc tiếp thu và hình thành lĩ năng, kĩ xảo như thế nào thì quá trình học sẽ không mang lại kết quả cao. Kiến thức giải toán có lời văn dạng tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó là nội dung trọng tâm của dạy học toán lớp 4 bậc tiểu học. Về thực chất nội dung này là sự mở rộng những hiểu biết về tổng và tỉ số. Vì vậy các bài toán về dạng tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó điều có dạng tương tự. -Do đó khi học sinh làm bài về dạng trên, giáo viên giúp học sinh tự nhớ lại: -Cách xác định tổng và tỉ. -Cách xác định số phần tương ứng. -Vẽ sơ đồ tương ứng với số phần. -Tìm tổng số phần bằng nhau. -Tìm số bé. -Tìm số lớn. Đây là cơ hội để học sinh củng cố các kiến thức về kĩ năng cơ bản về đọc, viết, phân biệt đồng thời cũng giúp HS khắc sâu một số đặc điểm riêng của dạng toán này. II/ Thực trạng vấn đề 1. Thực trạng tình hình Trong các năm học vừa qua tôi được phân công dạy lớp 4 tôi nhận thấy tình hình học tập của các em trong lớp không đồng đều. Môn toán là môn học khó khăn, học sinnh dễ chán, trình độ nhận thức của các em không đồng đều. Một số HS được sự quan tâm của gia đình thì ý thức học tập tốt đạt kết quả cao nhất là môn toán. Cón các HS đạt kết quả chưa cao là do chưa có ý thức được việc học, gia đình chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em mình, vì vậy khi bước sang giải toán có lời văn thì HS thường bị lúng túng, nhiều HS không nắm vững được tính chất của dạng toán này. Trong thực hành thường là thiếu vững chắc trong phân biệt tổng, tỉ, vẽ sơ đồ minh họa thao tác đặt lời giải và đặt phép tính thường bị sai. Năng lực học tập tự giác của các em còn hạn chế, chỉ tập trung ở một số em khá, giỏi, đa số các HS trung bình thường quen học thụ động. Từ những vấn đề đó tôi đã tìm hiểu; nghiên cứu đưa ra một số biện pháp nhằm mục đích nâng cao chất lượng dạy học môn toán. 2/ Những hạn chế khó khăn Được sự quan tâm của BGH trong mấy năm liền tôi đều dạy lớp 4, đã quen dần với nhận thức của HS ở địa phương, tuy nhiên trong quá trình dạy cũng gặp không ít những khó khăn hạn chế: -Một số em mất căn bản ở những lớp dưới. -Một số em chưa nắm tốt quy trình của toán có lời văn. -Một số em thường thực hiện sai lời giải và các phép tính -Một số em thường không đọc kĩ đề toán, chủ quan trong làm bài. Do các em chưa xác định tổng, tỉ, chưa phân biệt được số phần tương ứng nân dẫn đến vẽ sơ đồ sai. Nguyên nhân của hiện tượng này là HS chưa nắm kĩ về quy trình thực hiện các bước. Một số em chưa biết dạng toán nên đôi khi còn nhầm lẫn đến giải bài toán chưa đạt kết quả. Cơ sở vật chất trang bị chưa đầy đủ nên thực hiện phương pháp này đạt kết quả chưa cao. Một số học sinh còn chậm, nhút nhát, kĩ năng tóm tắt bài toán còn hạn chế, chưa có thói quen đọc và tìm hiểu kĩ bài toán dẫn tới thường nhầm lẫn giữa các dạng toán, lựa chọn phép tính còn sai, chưa bám sát vào yêu cầu bài toán để tìm lời giải thích hợp với các phép tính. Kĩ năng tính nhẩm với các phép tính (hàng ngang) và kĩ năng thực hành diễn đạt bằng lời còn hạn chế. Một số em tiếp thu bài một cách thụ động, ghi nhớ bài còn máy móc nên còn chóng quên các dạng bài toán vì thế phải có phương pháp khắc sâu kiến thức. Vào đầu năm học trong đợt khảo sát chất lượng về giải toán có lời văn, đầu năm kết quả như sau : Số học sinh Tóm tắt bài toán Chọn và thực hiện đúng phép tính Lới giải và đáp số Đạt Tỷ lệ % Chưa đạt Tỷ lệ % Đạt Tỷ lệ % Chưa đạt Tỷ lệ % Đạt Tỷ lệ % Chưa đạt Tỷ lệ % 35 5 14,3 30 85,7 5 14,3 30 85,7 9 25,7 26 74,3 III/ Giải pháp và kết quả * Giải pháp Qua đặc điểm tình hình khó khăn trên tôi mạnh dạng áp dụng đổi nới phương pháp giải toán có lời văn cho HS lớp 4. vào công việc giảng dạy môn toán, nhằm giúp các em có thể giải các bài toán một cách dễ dàng, các em thực sự hứng thú ham học không chán nản khi gặp những bài toan1kho1 ở dạng toán này. Trên lớp tôi vừa áp dụng đổi mới phương pháp vừa làm tốt công tác kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Qua kết quả khảo sát cho thấy kĩ năng giải các bài toán có lời văn của các em còn rất nhiều hạn chế vì thế tôi liền lên kế hoạch như sau : - Tìm hiểu hoàn cảnh của từng học sinh yếu môn toán có khó khăn như thế nào. - Vì sao khiến các em không thích học môn toán. - Chia học sinh thành từng tổ, từng nhóm, mỗi nhóm có học sinh khá, giỏi làm tổ trưởng và điều hành các bạn trong tổ những việc giáo viên giao. - Lập kế hoạch cho từng tổ. - Giáo viên hạn chế phê bình, chê trách học sinh, thường xuyên chấm điểm động viên, khen ngợi kịp thời. - Nhiệt tình trong giảng dạy không chạy theo thành tích mà cố gắng truyền đạt tất cả các nội dung thật sâu sắc, hướng dẫn tỉ mỉ từng bước giải. Bên cạnh đó khi học đến dạng toán tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó, giáo viên phải lên kế hoạch, phương pháp truyền thụ như thế nào để các em có thể học tốt, không rụt rè, bở ngở nhất là nhận dạng toán, vẽ sơ đồ tìm tổng số phần, và các phép tính, tôi có các biện pháp hướng dẫn như sau : 1/ Tự học tập và nghiên cứu để nắm vững được tác dụng cũng như việc tiến hành thực hành đổi mới trong phương pháp giảng dạy : Tôi thấy đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy giải toán nói riêng là nhằm tìm ra đựơc phương pháp logic cho từng nội dung của từng môn, từng bài để nhằm đạt được chất lượng cao nhất trong giảng dạy. Đổi mới phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay chính là để phát hiện, lựa chọn phương pháp cụ thể phù hợp với quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm và phù hợp với nội dung giáo dục cụ thể. Vì vậy chúng tôi thường xuyên sinh hoạt thăm lớp dự giờ của đồng nghiệp để học tập và xây dựng thống nhất cách thực hiện phương pháp đổi mới giảng dạy cho tất cả các môn học cho phù hợp để tìm ra con đường chuyển tải chính thức tới học sinh bằng con đường nhanh nhất, ngắn gọn nhất. Cần nghiên cứu, tìm hiểu để nắm được yêu câu của việc dạy toán nói chung và loại giải toán: "Tìm 2 số khi biết tổng và tỉ số của 2 số đó" nói riêng. Đồng thời nắm được những thiếu sót của học sinh trong giải toán có lời văn. 2/ Chuẩn bị cho giờ dạy giải toán theo phương pháp đổi mới đạt kết quả. Để có được giờ dạy giải toán theo phương pháp đổi mới đạt kết quả tốt, phát huy được tính tích cực của học sinh thì giáo viên phải có thiết kế cụ thể rõ ràng, nó sẽ quyết định lớn đến chất lượng giờ dạy và đồng thời giáo viên cũng là người tổ chức, hướng dẫn thiết kế cho từng học sinh. Mọi học sinh đều chủ động học tập và phát triển cao nhất, chính vì lẽ đó cả 2 đối tượng thầy và trò đều phải có sự chuẩn bị chu đáo. Sự chuẩn bị của giáo viên: Trước khi dạy bất cứ một loại giải nào, trong tổ chúng tôi đều thống nhất là dành thời gian kĩ lưỡng về tất cả các bài tập của dạng toán đó, từ bài giảng đến bài luyện, từ bài trong sách giáo khoa đến bài trong vở bài tập để thấy được phương pháp giảng dạy phù hợp, ngắn gọn, học sinh dễ tiếp thu, giáo viên nói ít và chọn được những bài thêm để nâng cao kiến thức đối với đối tượng học sinh khá, giỏi dạy. Đồng thời cũng lường trước được chỗ học sinh hay vướng mắc trong khi thực hành giải loại toán đó mà giáo viên lưu ý trong giảng dạy. - Khi dạy loại: "Bài toán tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó". Học sinh được học 2 tiết bài mới (đó là tiết 1: "Tỉ số ở dưới dạng số tự nhiên", có nghĩa là so sánh giữa giá trị của số lớn với giá trị của số bé. Tiết 2: "Tỉ số ở dưới dạng phân số", có nghĩa...). Thì học sinh thường mắc ở dạng tỉ số là phân số nên giáo viên dạy cần lưu ý nhấn mạnh để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Từ mối quan hệ tỉ số là hai số trong bài giáo viên hướng dẫn học sinh tìm ra sự biểu diễn trên sơ đồ tóm tắt bài toán. Đây là loại toán giải khó đối với học sinh lớp 4 nên giáo viên phải giúp học sinh: + Xác định được tổng, tỉ số đã cho + Xác định được hai số phải tìm là số nào? Từ đó hướng tới phương pháp giải chung là ( phương pháp giải bài toán): Tìm tổng số phần bằng nhau Tìm giá trị của một phân bằng lấy tổng của hai số chia cho tổng số phần bằng nhau, rồi dựa vào mối quan hệ giữa tỉ số của hai số của hai số mà tìm ra giá trị của mỗi số phải tìm. Trên cơ sở đó học sinh sẽ nắm cách giải đặc trưng của loại toán này. Để củng cố được kĩ năng và kiến thức của loại toán này, tôi cho các em tự đặt đề toán theo loại toán đó đồng thời chọn các bài toán khó cho học sinh khá, giỏi (áp dụng vào tiết luyện tập hay buổi dạy riêng biệt đối với học sinh khá, giỏi). Tất cả sự chuẩn bị trên của giáo viên đều được thể hiện cụ thể trên bài soạn đủ các bước, đủ các yêu cầu và thể hiện được công việc của thầy và trò trong giờ giải toán. Sự chuẩn bị của học sinh: Đối với học sinh đã đạt được giáo dục và bồi dưỡng ý thức thích học toán, có thú vị, hào hứng trong hoạt động học toán, có phương pháp học bộ môn toán, có thao tác về giải toán phải có đầy đủ các dụng cụ học toán và chuẩn bị đầy đủ cho phù hợp với từng tiết học. Đối vưói học sinh khá, giỏi trong những buổi bồi dưỡng riêng biệt cần có thêm sách giáo khoa về luyện giải, sách giáo khoa nâng cao... Song không thể thiếu được những kiến thức về toán học có hệ thống logic từ lớp dưới, từ bài học trước phải chắc chắn làm cơ sở, nền tảng giúp học sinh tự tin trong hoạt động thực hanh, trong việc tiếp thu kiến thức. Ví dụ như khi học giải toán vê "Bài toán tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó" thì các em đã được học bài trước là "Tỉ số"... 3/ Quy trình thực hiện dạy toán có lời văn: - Giải toán đối với học sinh là một hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp. Việc hình thành kỹ năng giải toán hơn nhiều so với kĩ năng tính vì bài toán giải là sự kết hợp đa dạng hoá nhiều khái niệm quan hệ toán học, ....chính vì vậy đặc trưng đó mà giáo viên cần phải hướng dẫn cho học sinh có được thao tác chung trong quá trình giải toán sau: Bước 1: Đọc kỹ đề bài: Có đọc kỹ đề bài học sinh mới tập trung suy nghĩ về ý nghĩa nội dung của bàit oán và đặc biệt chú ý đến câu hỏi bài toán. Chúng tôi có rèn cho học sinh thói quen chưa hiểu đề toán thì chưa tìm cách giải. Khi giải bài toán ít nhất đọc từ 2 đến 3 lần. Bước 2: Phân tích tóm tắt đề toán. Để biết bài toán cho biết gì? Hỏi gì? (tức là yêu cầu gì?) Đây chính là trình bày lại một cách ngắn gọn, cô đọng phần đã cho và phần phải tìm của bài toán để làm rõ nổi bật trọng tâm, thể hiện bản chất toán học của bài toán, được thể hiện dưới dạng câu văn ngắn gọn hoặc dưới dạng các sơ đồ đoạn thẳng. Bước 3: Tìm cách giải bài toán: Thiết lập trình tự giải, lựa chọn phép tính thích hợp. Bước 4: Trình bày bài giải: Trình bày lời giải (nói - viết) phép tính tương ứng, đáp số, kiểm tra lời giải (giải xong bài toán cần thử xem đáp số tìm được có trả lời đúng câu hỏi của bài toán, có phù hợp với các điều kiện của bài toán không? (trong một số trường hợp nên thử xem có cách giải khác gọn hơn, hay hơn không? 4/ Áp dụng phương pháp dạy giải bài toán có lời văn : Đối với dạng toán này thì có các dạng bài nổi bật sau: Giúp học sinh nhận biết 2 dạng toán " tổng tỷ" và " hiệu tỷ". Giáo viên có thể giúp học sinh nhận biết 2 dạng toán này bằng các bước: Bước 1: cho học sinh đọc kỹ đề, phân tích ( gạch chân) Bước 2: xác định tỷ số Bước 3: giúp học sinh vẽ sơ đồ đoạn thẳng có các số phần bằng nhau. Phân tích sơ đồ đoạn thẳng giúp học sinh nắm vững số bé bao nhiêu phần, số lớn bao nhiêu phần. Để giúp học sinh nhân biết vấn đề trên, giáo viên cần phải hình thành: + Học sinh nắm vững và so sánh 2 sơ đồ ( tổng tỉ, hiệu tỉ) khác nhau ở điểm nào Ví dụ: ? trang Sơ đồ 1: An: 80 trang Minh: ? trang ? trang Sơ đồ 2: An: 60 trang Minh: ? trang Giáo viên cho học sinh nhận dạng được 2 sơ đồ có sự khác nhau ở chỗ: + Sơ đồ 1: tổng của 2 đoạn thẳng biểu diễn trên sơ đồ là 80 trang. An bằng Minh hoặc ( Minh hơn An 3 lần) + Sơ đồ 2: 2 đoạn thẳng được biểu diễn, chia đều số phần trên mỗi đoạn. Biết được sự hơn kém giữa đoạn này và đoạn kia ( hoặc ít hơn, nhiều hơn) Từ những giải pháp trên, học sinh sẽ vẽ được trên sơ đồ, tìm được tổng số phần, hoặc hiệu số phần của 2 dạng toán trên. Từ đó, học sinh sẽ giải toán trên một cách dễ dàng. * KẾT QUẢ: Sau khi nghiên cứu và thực hiện đề tài trên trong giảng dạy trong năm học tôi đã thu được kết quả như sau: Số học sinh Tóm tắt bài toán Chọn và thực hiện đúng phép tính Lới giải và đáp số Đạt Tỷ lệ % Chưa đạt Tỷ lệ % Đạt Tỷ lệ % Chưa đạt Tỷ lệ % Đạt Tỷ lệ % Chưa đạt Tỷ lệ % 35 34 97,1 1 2,9 33 94,3 2 5,7 33 94,3 2 5,7 Như vậy rèn cho các em có phương pháp học là biện pháp tốt nhất của người làm công tác giáo dục. IV/ Kết luận 1/ Tóm lược giải pháp Để có kết quả giảng dạy tốt đòi hỏi người giáo viên phải nhiệt tình và có phương pháp giảng dạy tốt. Có một phương pháp giảng dạy tốt là một quá trình tìm tòi, học hỏi và tích lũy kiến thức, kinh nghiệm của bản thân mỗi người. Là người giáo viên được phân công giảng dạy khối lớp 4. Chúng tôi nhận thấy việc tích luỹ kiến thức cho các em là cần thiết, nó tạo tiền đề cho sự phát triển trí thức của các em "cái móng" chắc sẽ tạo bàn đạp và đà để tiếp tục học lên lớp trên và hỗ trợ các môn học khác. 2/ Bài học kinh nghiệm Muốn việc dạy học của thầy và trò được nâng lên việc nghiên cứu đổi mới là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, vì thế thông qua việc giảng dạy và hướng dẫn HS học tập tôi rút ra được những bài học cho bản thân. Người giáo viên phải yêu nghề mến trẻ, có tâm huyết với nghề, luôn trau dồi kinh nghiệm cho bản thân, luôn luôn học hỏi ở các đồng nghiệp, đặc biệt phải có óc sáng tạo, tìm tòi, nghiên cứu, áp dụng các phương pháp đổi mới phương pháp dạy học để có kết quả cao. - Giáo viên là người hướng dẫn, còn học sinh là những người thợ. - Giáo viên phải nắm vững các yêu cầu bài dạy. - Giáo viên phải có sự chuẩn bị, nghiên cứu rất kĩ đồng thời phải có một phương pháp truyền thụ cho HS để HS suy nghĩ, quan sát để nêu ra những ý kiến sát thực với nội dung bài học. - Giáo viên phải chủ động sáng tạo, trong việc đổi mới các phương pháp dạy học theo từng nội dung, từng môn học theo nhận thức của HS. - Thầy trò phải có quan hệ hỗ trợ lẫn nhau để HS tham gia vào các hoạt động học tập một cách tích cực, hứng thú, tự nhiên - Phân chia được đối tượng học sinh để có kế hoạch cụ thể trong việc bồi dưỡng và phát huy tính tích cực, sáng tạo của HS - Tạo điều kiện để HS hứng thú, tự tin phát triển năng lực cá nhân của mỗi em. 3/ Đề xuất, kiến nghị a. Đối với nhà trường b. Đối với giáo viên - Giáo viên phải chuẩn bị bài thật kĩ trước khi đến lớp, tìm ra các phương pháp đổi mới phù hợp với bài học, phù hợp với trình độ HS. Tạo sự thu hút lôi cuốn HS tập trung nghe giảng, kích thích tư duy sáng tạo, không khí học tập sôi nổi - Về phía HS Cần ý thức được nhiệm vụ học tập, Học sinh phải tham gia vào các hoạt động học tập một cách tích cực, hứng thú, và tự tin. Trách nhiệm của học sinh là phát hiện, chiếm lĩnh và vận dụng. Vì thế các em phải chủ động để đem lại kết quả cao trong học tập. Tân An 5 ngày: 10/11/2011 Người viết Võ Hoàng AnhSkkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Giải Toán Có Lời Văn Ở Lớp 2 Có Hiệu Quả
MỤC LỤC : A. PHẦN MỞ ĐẦUI. Lý do chon đề tài. 2II. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ……………………………………………….2III. Nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………………………….3IV. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………3V. Nội dung của đề tài………………………………………………………………3 B. NỘI DUNGI. Cơ sở lý luận và thực tiễn………………………………………………………..3Cơ sở lý luận…………………………………………………………………3Cơ sở thực tiễn .4II Thực trạng dạy và học giải toán có lời văn ở lớp 2a1 năm học 2009-2010 và 2010-2011…………………………………………………….5III. Nguyên nhân của thực trạng………………………………………………….6III. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn hiệu quả………..61. Tìm hiểu đề toán……………………………………………………………..62. Hướng dẫn giải bài toán…………………………………………………….73. Trình bày bài giải……………………………………………………………84.Giúp đỡ học sinh rụt rè, thụ động và tự ti………………………………….10IV. Kết quả áp dụng……………………………………………………………12V. Bài học kinh nghiệm………………………………………………………..13C. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ1. Kết luận………………………………………………………………………152. Kiến nghị…………………………………………………………………….15 D. Tài liệu tham khảo.
A. PHẦN MỞ ĐẦUI. Lý do chọn đề tàiCùng với các môn học khác ở bậc tiểu học, môn Toán có vai trò vô cùng quan trọng, nó giúp học sinh nhận biết được số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực, nhờ đó mà học sinh có những phương pháp, kĩ năng nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh. Nó góp phần rèn luyện phương pháp suy luận, suy nghĩ đặt vấn đề và giải quyết vấn đề; góp phần phát triển óc thông minh, suy nghĩ độc lập, linh động, sáng tạo cho học sinh. Mặt khác, các kiến thức, kĩ năng môn toán ở tiểu học còn có nhiều ứng dụng trong đời sống thực tế.Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy nhiều năm lớp ở khối 2, tôi thấy: Toán có lời văn có vị trí rất quan trọng trong chương trình Toán ở trường tiểu học. Các em được làm quen với toán có lời văn ngay từ lớp 1. Đặc biệt ở lớp 2,việc giải toán có lời văn yêu cầu các em phải viết lời giải cho phép tính mà lời giải phải hay và chính xác…Có thể nói, đây quả thực là một khó khăn đối với học sinh lớp 2 khi học giải toán có lời văn.Việc giải toán có lời văn ở lớp 2 rất quan trọng vì nó là bước đệm cho việc giải toán có lời văn ở các lớp sau. Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài: ” Một số giải pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn hiệu quả” để góp phần nâng cao chất lượng môn toán nói riêng và chất lượng dạy và học của nhà trường nói chung.Việc nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường còn phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố như : Cơ sở vật chất của nhà trường, điều kiện hoàn cảnh gia đình của học sinh …Đề tài này không đề cặp đến các vấn đề đó mà chủ yếu đi sâu vào một số giải pháp giúp giáo viên dạy học theo nhóm đối tượng học sinh có hiệu quả mà thôi . II. Đối tương, phạm vi nghiên cứu :Đối tượng: Học sinh lớp 2A1 Trường TH Hoàng Hoa ThámPhạm vi : Nghiên cứu trong 2 năm học :2009-2010 ;2010-2011III. Nhiệm vụ nghiên cứu :– Điều tra chất lượng giải toán có lời văn và thực trạng giải toán có lời văn của học sinh lớp 2 trong Trường Tiểu học Hoàng Hoa Thám.Năm học :2009-2010 ;2010-2011– Đưa ra một số giải pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn hiệu quả .IV. Phương pháp nghiên cứu :– Nghiên cứu tài liệu ,sách giáo khoa ,sách giáo viên ,sách tham khảo.– Thống kê Chất lượng giải toán lớp 2A1 năm học :2009-2010; 2010-2011.– Phương pháp thử nghiệm tại lớp 2A1 năm học 2011-2012.V. Nội dung của đề tài :– Điều tra thu thập số liệu thực trạng của việc giải toán có lời văn của học sinh lớp 2A1từ năm học 2009-2010 đến 2010-2011 của Trường Tiểu học Hoàng Hoa Thám-Phân tích số liệu thu thập từ đó tìm ra nguyên nhân hạn chế của phương pháp cũ.– Đưa ra một số giải pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn hiệu quả .– Kết quả thực hiện của đề tài trong phạm vi lớp 2A1 trong học kì I năm học 2011-2012.B. NỘI DUNG: I. Cơ sở lý luận và thực tiễn.1. Cơ sở lý luận.Giải toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Giải Bài Toán Có Lời Văn Lớp 2
CHƯƠNG I TỔNG QUAN "Một số biện pháp giúp học sinh giải bài toán có lời văn lớp 2" 1. Cơ sở lý luận : Môn toán là một trong những môn học có nhiệm vụ rất quan trọng ở tiểu học. Học toán giúp các em bước đầu hình thành khả năng trừu tượng hóa, khái quát hóa, kích thích trí tưởng tượng, óc sáng tạo đa dạng và phong phú. Với sự hướng dẫn, gợi mở đúng mức, đúng lúc của các thầy cô, học sinh tự phát hiện và tự giải quyết các vấn đề của bài học, tự chiếm lĩnh nội dung học tập, thực hành. Trong các bài học của môn Toán thì dạng bài giải toán có lời văn giữ một vai trò rất quan trọng. Thông qua việc giải toán ở tiểu học các em bắt đầu làm quen với nhiều khái niệm toán học cơ bản ban đầu, biết được mối quan hệ giữa các sự kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua việc giải toán, rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy, ý thức vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, thói quen làm việc có kế hoạch, xét đoán có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp học sinh phát huy những ưu điểm và khắc phục những mặt còn hạn chế trong học tập và trong các hoạt động giáo dục khác. Ở lớp 2, các em còn nhỏ, ham chơi, vừa học, vừa chơi, chưa chú ý tập trung học tập. Với đặc điểm tâm sinh lý học sinh tiểu học là dễ nhớ nhưng mau quên, các em ham chơi và chơi nhiều hơn học, sự tập trung chú ý trong giờ học toán chưa cao, trí nhớ chưa bền vững thích học nhưng chóng chán. Vì vậy giáo viên phải làm thế nào để khắc sâu kiến thức cho học sinh và tạo ra không khí sẵn sàng học tập, chủ động tích cực trong việc tiếp thu kiến thức. Nếu không được hướng dẫn phương pháp học tập đúng mức, hợp lý, nhất là đối với những dạng bài toán có lời văn, thì các em không hoàn thành được bài tập hoặc làm bài không đúng với dạng toán được học. Nếu không hiểu cách làm hoặc thường làm bài sai các em sẽ chán nản dẫn tới kết quả học tập sẽ ngày càng sút kém. Các em không hiểu bài dẫn đến mất gốc kiến thức. Không xác định được cách học, cách làm, các em thường chán dẫn tới lì lợm, dửng dưng, không hợp tác học tập trong các tiết học. 2. Phương pháp tiếp cận tạo ra sáng kiến : Để nâng cao chất lượng học tập thì đổi mới phương pháp dạy học là thực sự cần thiết. Đòi hỏi người giáo viên phải luôn luôn tìm tòi sáng tạo, tìm ra phương pháp dạy học tốt nhất để đạt kết quả cao nhất. Là giáo viên giảng dạy trực tiếp ở lớp 2, tôi nhận thấy chưa có nhiều học sinh giỏi môn toán, còn có nhiều học sinh học yếu môn toán so với chuẩn kiến thức, kĩ năng quy định. Có nhiều em chưa giải được các dạng toán có lời văn trong chương trình học, tính toán chậm, hay nhầm lẫn. Vậy làm thế nào để giúp đỡ học sinh giài tốt các bài toán có lời văn để nâng cao hơn chất lượng học môn Toán? Đó là băn khoăn suy nghĩ của tôi. Qua một năm tìm tòi, áp dụng những phương pháp dạy học các dạng toán cần thiết trong môn Toán, tôi thấy bước đầu đã thu được kết quả. Tôi xin mạnh dạn trình bày, trao đổi cùng đồng nghiệp một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong việc giúp đỡ học sinh giải bài toán có lời văn lớp 2 ở trường Tiểu học và THCS Lập Chiệng để đồng nghiệp tham khảo. 3. Mục tiêu cần đạt được : Học sinh biết giải và trình bày bài giải đúng các dạng toán: - Bài toán về nhiều hơn. - Bài toán về ít hơn. - Giải bài toán có một phép nhân. - Giải bài toán có một phép chia. - Tính chu vi hình tam giác, hình tứ giác. CHƯƠNG II MÔ TẢ SÁNG KIẾN 1. Vấn đề của Sáng kiến : Từ đầu năm học, qua khảo sát và giảng dạy thực tế thấy rằng: số học sinh ham học toán và học giỏi môn toán còn hạn chế. Số học sinh học yếu môn toán so với chuẩn kiến thức kĩ năng còn nhiều. Có em có kết quả học tập môn toán thất thường, lúc lên, lúc xuống. Học sinh chưa thực sự thích học môn toán. Còn có em lười suy nghĩ khi làm bài nhất là giải các bài toán có lời văn... Để khắc phục tình trạng học sinh học yếu môn toán ở tiểu học là vấn đề quan tâm không những của giáo viên mà còn là sự quan tâm của các cấp các ngành, cha mẹ học sinh. Thực tế ở lớp, qua kết quả quan sát học sinh học môn toán đầu năm : - Nhiều em tính toán chậm. chưa giải được các bài toán, dạng toán đơn giản trong chương trình học. - Chưa biết trình bày cách giải một bài toán cho đúng, đẹp và khoa học. - Có đến 70% học sinh trong lớp còn lúng túng khi gặp bài toán có lời văn. Đa số các em chưa nắm được đầy đủ quy trình các bước tiến hành giải một bài toán. Nhiều em mới chỉ biết bắt chước dạng bài làm mẫu giáo viên đã hướng dẫn. Các em chưa tích cực suy nghĩ, chưa tự giác làm bài. Vì vậy nên khi gặp bài toán khác với mẫu một chút là các em lúng túng, không biết làm phép tính gì, không biết cách tìm câu lời giải phù hợp với bài toán, dạng toán. 2. Giải pháp thực hiện sáng kiến : 2.1. Nguyên nhân : 2.1.1. Nhận thức chậm, tư duy kém. Những học sinh này không thuộc được bảng cộng trừ hoặc nhân chia đã học. Không vận dụng được các bảng tính đã học vào làm tính, giải toán. Tính toán phải đếm bằng tay mất nhiều thời gian mà kết quả vẫn sai. Không nhớ được cách thực hiện các phép tính, vừa làm bài xong đã quên, nhất là cộng trừ có nhớ. Đây là những đối tượng học sinh có kết quả học tập chưa đạt so với chuẩn kiến thức kĩ năng. Trong các bài toán các em chỉ lấy hai số có trong bài toán rồi cộng hoặc trừ. Các em không đọc bài toán hoặc đọc một lần không hiểu gì là ngồi chơi hoặc làm bừa phép tính. 2.1.2 Chưa có phương pháp học tập đúng. Với đối tượng này, các em thường lơ đãng trong giờ học. Giờ này làm việc khác, giờ toán lại giở tập đọc ra đọc. Giờ thầy cô hướng dẫn thì cắm cúi làm bài vào vở hoặc ngồi vẽ bậy để chơi. Có những em tay lúc nào cũng để trong ngăn bàn để nghịch một cái gì đó. Cả buổi học tìm kiếm trong cặp sách lúc thì cái bút, lúc thì quyển sách, lúc tìm thước kẻ Đây thường là những học sinh bướng bỉnh, mải chơi nên kết quả làm bài thường kém hoặc không hiểu cách làm, không hoàn thành hết bài tập. Về nhà không xem lại bài, không chuẩn bị bài và sách vở đồ dùng học tập trước khi đến lớp. Chưa có thói quen gọn gàng ngăn nắp, học xong bỏ sách vở không đúng nơi quy định nên hay quên. Đến lớp thiếu sách vở, thiếu phương tiện học tập và có kết quả học tập chưa tốt. Các đối tượng này cũng thường xuyên không học bài, thiếu sách vở, đồ dùng học tập, sách vở bẩn, nhàu nát. Gia đình chưa quan tâm nhắc nhở con em học tập ở nhà, chưa tạo điều kiện cho các em học tập. Học sinh chưa có góc học tập riêng. 2.1.3. Không đọc kĩ bài toán, lười phân tích, suy luận tìm ra cách giải. Những học sinh này thường hay làm bài ẩu dẫn tới sai sót hoặc chỉ đọc bài qua loa nên không biết làm thế nào cho đúng. Có trường hợp ngồi chờ cô giáo chữa bài hoặc bạn giải trên bảng để chép và rồi bài tập sau vẫn không làm được bài. 2.2. Hiệu quả của sáng kiến : Qua một năm học tìm hiểu, thấy được một số nguyên nhân cơ bản trên, nên tôi đã tiến hành các biện pháp giúp các em làm tốt hơn các dạng bài toán có lời văn như sau: 2.2.1. Đối với đối tượng học sinh nhận thức chậm, tư duy kém: Với những học sinh yếu này giáo viên cần lên kế hoạch giúp đỡ các em vào các tiết học chính khóa và vào các tiết buổi 2, các tiết ôn tập thêm cho học sinh yếu. Lúc nào cũng để mắt đến các em, nhắc nhở, hướng dẫn các em kịp thời. Sử dụng thường xuyên đồ dùng trực quan (Que tính, các hình vuông, hình tròn) nhắc đi nhắc lại cách tính hoặc cách làm một dạng toán để các em ghi nhớ được cách làm. Giáo viên cần phải hướng dẫn học sinh ôn lại một số kiến thức, kỹ năng đã biết để tìm hiểu kiến thức cần học mới. Để hiểu được biện pháp mới, học sinh đã biết gì, cần ôn lại kiến thức nào, điều gì là mới cần dạy kỹ. Các kiến thức, kỹ năng cũ sẽ hỗ trợ cho kiến thức, kỹ năng mới, hay ngược lại dễ gây nhầm lẫn cần giúp học sinh phân biệt. Cách củng cố tốt nhất, không phải là yêu cầu học sinh nhắc lại bằng lời mà cần tạo điều kiện để học sinh vận dụng biện pháp. Qua giải các bài toán, để học sinh độc lập chọn phép tính và làm tính. Lúc này không nên cho những bài toán quá phức tạp, mà chỉ nên chọn bài toán đơn giản dùng đến phép tính hay quy tắc vừa học. Việc ôn luyện, củng cố những biện pháp tính khác, quy tắc khác sẽ làm trong giờ luyện tập, ôn tập. 2.2.2. Đối với đối tượng học sinh chưa có phương pháp học tập đúng: Giáo viên tạo cho các em có nề nếp học tập từ đầu năm học như: Sử dụng các kí hiệu trong giờ học yêu cầu học sinh thực hiện như: N: nghe và nhìn; S: mở sách giáo khoa; V: ghi bài, làm bài vào vở ghi; VBT: làm bài vào vở bài tập. Lấy đủ đồ dùng, sách vở cần dùng của môn học để trước mặt theo thứ tự cần dùng. Ví dụ: Giờ toán cần có bút, thước kẻ, bút chì, bảng con, phấn, vở ghi, sách giáo khoaGiáo viên yêu cầu các em xếp theo thứ tự dùng trước sau như: Vở ghi dùng sau để dưới cùng, rồi đến sách giáo khoa, bảng phấn để trên cùng vì được sử dụng trước, hộp bút để bên cạnh. Giáo viên thường xuyên bao quát lớp, nhắc nhở tư thế ngồi học và sự tập trung chú ý học tập của học sinh. Cho học sinh thi đua thực hiện các nề nếp học tập giữa các tổ trong lớp. Tuyên dương và tặng thưởng những đồ vật nhỏ như: cái bút, quả bóng baycác em rất phấn khởi và tạo được phong trào thi đua giữa các tổ nhómPhong trào học tập được thúc đẩy, kết quả học tập được nâng lên. 2.2.3. Đối với những học sinh không đọc kĩ bài toán, lười phân tích, suy luận tìm ra cách giải: Mỗi bài toán có lời văn là một tình huống có vấn đề buộc các em phải tư duy, suy luận và phân tích tổng hợp để giải quyết vấn đề. Nếu các em không đọc kĩ bài toán sẽ không hiểu được bài toán thuộc dạng nào, bài toán yêu cầu làm gì, cần làm phép tính gì để có đáp số đúng. Các em không hiểu hết các từ quan trọng trong bài toán để phân tích, suy luận tìm ra cách giải. Vì muốn giải được bài toán có lời văn thì các em phải hiểu lời văn thì mới làm được phép tính đúng. Khi làm phép tính thì phải hiểu lời giải này trả lời cho câu hỏi nào. Để khắc phục được tình trạng trên tôi tôi tiến hành hướng dẫn các em giải các bài toán theo các bước như sau: Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán Tập trung chú ý đến yêu cầu của bài toán. Trước hết giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh đọc kỹ đề bài, xác định cho được bài thuộc dạng toán nào, đâu là cái đã cho, đâu là cái phải tìm. Để giải đúng một bài toán, các em cần đọc thật kỹ đề bài. Bởi đã có rất nhiều học sinh giải toán sai, không phải đề toán khó mà nguyên nhân là do học sinh vừa đọc đề xong đã vội vàng bắt tay vào giải ngay. Trong bất kỳ bài toán nào cũng có hai bộ phận: Bộ phận thứ nhất là những điều đã cho, bộ phận thứ hai là cái phải tìm. Bắt buộc phải xác định cho được, cho đúng những cái đã cho, những cái phải tìm trong bài toán. Cần nắm rõ những gì thuộc về bản chất của đề toán, những gì không thuộc về bản chất đề toán để hướng sự chú ý vào những chỗ cần thiết. Từ nào chưa hiểu hết ý nghĩa thì phải nắm hiểu ý nghĩa của nó. Bước 2: Phân tích, tóm tắt bài toán Dùng câu hỏi gợi mở, giúp học sinh thiết lập mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm bằng cách tóm tắt bài toán dưới dạng sơ đồ, hình vẽ hoặc ngôn ngữ ngắn gọn. Đây là bước quan trọng để thể hiện phần trọng tâm và toát lên những cái phải tìm của đề bài. Khi tóm tắt bài toán cần gạt bỏ những gì là thứ yếu, lặt vặt trong đề toán và hướng học sinh tập trung suy nghĩ vào những thứ chính yếu của đề toán, tìm cách biểu hiện bằng hình vẽ. Trong trường hợp khó vẽ được những điểm chính ấy thì cần dùng ngôn ngữ, kỹ hiệu ngắn gọn để ghi lại thật vắn tắt, thật cô đọng. Bước 3: Tìm cách giải bài toán Cần phân tích các giữ liệu, điều kiện và câu hỏi của bài toán nhằm xác lập mối liên hệ giữa chúng và tìm được các phép tính thích hợp. Lập kế hoạch giải bài toán, có hai hình thức thể hiện: - Đi từ câu hỏi của bài toán đến các số liệu. - Đi từ số liệu đến các câu hỏi của bài toán. Bước 4: Trình bày bài giải Dựa vào kết quả phân tích đề toán ở bước 3, xuất phát từ những điều đã cho trong đề toán, giáo viên giúp học sinh lần lượt viết lời giải và thực hiện các phép tính để tìm ra đáp số, viết danh số, đơn vị phù hợp. Cần chú ý thử lại sau khi làm xong từng phép tính cũng như thử lại đáp số xem có phù hợp với đề toán hay không; cũng cần kiểm tra lại các lời giải của các phép tính xem đã phù hợp, đủ ý và ngắn gọn hay chưa Bước 5: Khai thác bài toán Bước này dành cho học sinh năng khiếu. Sau khi giải xong bài toán cần suy nghĩ xem còn những cách ghi lời giải nào khác nữa không? Cách ghi lời giải đó có phù hợp yêu cầu bài toán, phù hợp với phép tính không, ... 2.3. Kết quả Qua một năm thực hiện một số biện pháp giúp học sinh giải bài toán có lời văn lớp 2, tôi thấy việc áp dụng các biện pháp có hiệu quả. Bước đầu học sinh có sự chuyển biến về ý thức học tập, phương pháp học tập và chất lượng học tập. Học sinh đã nhớ được cách xác định các dạng toán, cách tóm tắt, phân tích và hướng giải các dạng toán, kết quả học môn toán được nâng lên rõ rệt. Nhiều em làm giải toán nhanh, yêu thích học môn toán. Kết quả cuối năm môn toán đạt được như sau: Giỏi: 8 em - 40 % Khá: 8 em - 40 % Trung bình: 4 em - 20 % Không còn học sinh yếu kém về môn toán. Từ kết quả đạt được trên, tôi nhận thấy phương pháp dạy học của tôi phù hợp với học sinh lớp mình phụ trách. Chất lượng học môn toán được nâng lên, cùng với môn học khác giúp các em hoàn thành chương trình lớp học. 3. Khả năng áp dụng nhân rộng sáng kiến : Kinh nghiệm của tôi đơn giản, dễ thực hiện. Tất cả giáo viên trong trường tiểu học Lập Chiệng và các trường vùng khó khăn khác trong huyện đều có thể áp dụng để giúp học sinh giải được các bài toán có lời văn lớp 2, từ đó giúp các em học tốt hơn môn Toán lớp 2. CHƯƠNG III KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận : Để đạt được mục tiêu dạy - học và góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học thì việc tìm tòi sáng tạo, đúc rút kinh nghiệm qua thực tế giảng dạy của người giáo viên là thực sự cần thiết. Qua mỗi bài học, mỗi môn học, người giáo viên lại rút được kinh nghiệm thiết thực cho bản thân để bài học sau giảng dạy tốt hơn bài học trước. Thấy được việc nào cần làm, cần hướng dẫn học sinh như thế nào để học sinh hiểu bài, nắm bắt được kiến thức một cách có hệ thống, chính xác và kết quả học tập của học sinh ngày càng tốt hơn. Trong đó, dạy giải toán có lời văn là một bộ phận quan trọng của chương trình toán tiểu học. Nó được kết hợp chặt chẽ với nội dung của các kiến thức về số học, các yếu tố đại số, các yếu tố hình học. Dạy giải toán là một hoạt động khó khăn, phức tạp về mặt trí tuệ, do đó khi giải toán có lời văn đòi hỏi học sinh phải phát huy trí tuệ một cách tích cực linh hoạt, chủ động và sáng tạo. Qua việc giải toán của học sinh, giáo viên dễ dàng phát hiện ra những ưu điểm và thiếu sót để giúp các em khắc phục và phát huy. 2. Đề xuất/kiến nghị : 1. Đối với nhà trường Thường xuyên tổ chức các chuyên đề trong tổ, và toàn trường để cùng nhau bàn biện pháp giảng dạy tốt nhất. Tìm ra các phương pháp hữu hiệu bồi dưỡng, phụ đạo học sinh yếu, đặc biệt là môn toán. Tổ chức cho giáo viên đi thăm và học hỏi kinh nghiệm dạy tốt của các đơn vị tiêu biểu trong và ngoài tỉnh. 2. Đối với giáo viên Soạn bài và chuẩn bị kĩ bài dạy trước khi lên lớp. Bài dạy cần thể hiện rõ nội dung yêu cầu cần đạt đối với từng đối tượng học sinh và phương pháp dạy từng đối tượng học sinh đó. Sáng tạo trong giảng dạy, bài dạy hấp dẫn, lôi cuốn học sinh tham gia các hoạt động học tập. Kích thích học sinh tư duy suy nghĩ xây dựng bài. Tạo không khí học tập vui vẻ, hợp tác giữa các bạn trong nhóm học tập của học sinh. Thường xuyên giữ vững liên lạc hai chiều với gia đình học sinh. Thăm gia đình học sinh để hiểu rõ điều kiện hoàn cảnh của từng học sinh. Kiểm tra việc học bài buổi tối của học sinh đặc biệt là đối tượng học sinh yếu. 3. Đối với học sinh Xác định rõ mục đích và nhiệm vụ học tập của từng môn học. Xây dựng cho mình tói quen học hỏi và phương pháp học tập đúng đắn, nghiêm túc. Có đủ sách vở, đồ dùng học tập của từng môn học. Giữ gìn, bảo quản đồ dùng sách vở sạch đẹp, bền lâu. Mạnh dạn, tự tin hợp tác cùng các bạn trong các hoạt động học tập. Tôi xin cảm ơn. Lập Chiệng, ngày 3 tháng 5 năm 2017 XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ TÁC GIẢ SÁNG KIẾN Bùi Thị Khuyến ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CÁC CẤP
Skkn Một Số Biện Pháp Hướng Dẫn Học Sinh Lớp 3 Giải Toán Có Lời Văn
1.1 LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Để phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ là mục tiêu của xã hội. Nghị quyết Trung ương II của Đảng đã khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu. Chính vì vậy Đảng và nhân dân ta đã không ngừng quan tâm đến chất lượng giáo dục, đến việc đào tạo nhân tài cho đất nước. Cùng với các môn học khác ở bậc Tiểu học, môn Toán có vai trò vô cùng quan trọng, nó giúp học sinh nhận biết được số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực, nhờ đó mà học sinh có những phương pháp, kĩ năng nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh. Môn toán còn góp phần rèn luyện phương pháp suy luận, suy nghĩ đặt vấn đề và giải quyết vấn đề; góp phần phát triển óc thông minh, suy nghĩ độc lập, linh động, sáng tạo cho học sinh. Mặt khác, các kiến thức, kĩ năng môn toán ở tiểu học còn có nhiều ứng dụng trong đời sống thực tế. Qua thực tế giảng dạy ở các khối lớp, đặc biệt năm nay tôi đứng lớp ở khối 3, tôi thấy: Toán có lời văn có vị trí rất quan trọng trong chương trình Toán ở trường tiểu học, vì: + Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận dụng và hiểu sâu hơn kiến thức về số học, đo lường, yếu tố đại số, các yếu tố hình học đã được học trong môn toán ở tểu học. Hơn thế nữa phần lớn các biểu tượng, khái niệm, quy tắc, tính chất toán học đều được học sinh tiếp thu qua con đường giải toán. + Thông qua nội dung thực tế đa dạng của bài toán, học sinh sẽ tiếp nhận được những kiến thức phong phú về cuộc sống và có điều kiện để rèn luyện khả năng áp dụng các kiến thức toán học vào cuộc sống. + Việc giải quyết bài toán còn đòi hỏi học sinh phải biết tự xem xét vấn đề, tự mình tìm tòi cách giải quyết vấn đề, tự mình thực hiện các phép tính, tự kiểm tra lại kết quả. Do đó giải toán là một cách tốt nhất để rèn luyện đức tính kiên trì, vượt khó, cẩn thận, chu đáo, yêu thích sự chặt chẽ, chính xác. Đồng thời trong thực tế học tập của học sinh tiểu học, đặc biệt là các lớp đầu cấp việc giải toán còn có những khó khăn như: Khả năng phân tích đề của các em chưa cao, nhất là đối với các bài toán có những dữ liệu chưa rõ ràng, các em thường trình bày lời giải chưa chính xác, cách dẫn dắt lời giải hay sai, có khi các em còn rất ngại làm, ngại giải toán có lời văn. Xuất phát từ những lí do trên, tôi nhận thấy việc giúp học sinh giải toán có lời văn lớp 3 là vấn đề rất cần thiết nên ngay từ đầu năm học( 2016 – 2017) khi được phân công dạy lớp 3 tôi đã trăn trở, suy nghĩ và mạnh dạn tìm hiểu về đề tài: “ Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 3 giải toán có lời văn” để tìm ra phương pháp thích hợp hướng dẫn học sinh thực hiện giải từng dạng toán và nhằm giúp cho việc giải toán có lời văn ở học sinh lớp 3 đạt kết quả cao. Trong quá trình nghiên cứu sẽ không tránh khỏi thiếu sót, tôi rất mong được sự góp ý, nhận xét của Hội đồng khoa học, của các đồng nghiệp. 1.2 MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Nghiên cứu và làm sáng tỏ một số khó khăn, tồn tại trong quá trình giải toán có lời văn ở lớp 3, cách thức dạy học về nội dung giải toán. Tìm ra một số biện pháp cụ thể, nhằm hình thành và phát triển kĩ năng giải các bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3. Giúp học sinh lớp 3 biết cách giải và trình bày bài toán có lời văn, nắm chắc và thực hiện đúng quy trình bài toán. 1.3 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: Nghiên cứu tài liệu Cải tiến phương pháp dạy học về giải toán có lời văn. Dạy thực nghiệm để kiểm nghiệm các giải pháp đề ra và đề xuất ý kiến về dạy giải toán có lời văn. PHƯƠNG PHÁP: Phương pháp thực hành: Xây dựng và tổ chức các hình thức dạy học giải toán có lời văn. Phương pháp điều tra: Điều tra bằng cách phỏng vấn giáo viên, học sinh. Kiểm tra kết quả học tập để thu thập thông tin, số liệu. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Thông qua việc thiết kế các hình thức dạy học phần giải toán có lời văn và tổ chức các giờ học toán ở trên lớp, từ những kết quả đạt được tổng kết thành kinh nghiệm thực tiễn. II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận. 2.1.1. Đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học Ở học sinh tiểu học, nhất là học sinh các lớp đầu cấp, hệ thống tín hiệu thứ nhất còn chiếm nhiều ưu thế so với hệ thống tín hiệu thứ hai, do đó các em rất nhạy cảm với tác động bên ngoài. Điều này phản ánh trong nhiều hoạt động nhận thức ở lứa tuổi học sinh tiểu học. Do khả năng phân tích chưa phát triển, các em thường tri giác trên tổng thể. Tri giác không gian chịu nhiều tác động của trường tri giác gây ra các biến dạng vào “ảo giác”. Ở học sinh tiểu học sự chú ý không có chủ định còn chiếm ưu thế, sự chú ý này chưa bền vững nhất là các đối tượng ít thay đổi. Do thiếu khả năng tổng hợp, sự chú ý của học sinh tiểu học còn phân tán, mặt khác do thiếu cả khả năng phân tích nên các em dễ bị lôi cuốn vào trực quan, gợi cảm. Sự chú ý ở các em thường hướng ra bên ngoài vào hành động chứ các em chưa có khả năng hướng vào trong, hướng vào tư duy. Trí nhớ trực quan hình tượng và trí nhớ máy móc phát triển hơn trí nhớ lôgíc, ghi nhớ máy móc dễ dàng hơn ghi nhớ lôgíc, hình ảnh cụ thể dễ nhớ hơn các câu chữ trừu tượng. Trí tưởng tượng tuy có phát triển hơn nhưng tản mạn, ít có tổ chức và còn chịu tác động nhiều của hứng thú, kinh nghiệm sống và các mẫu hình đã biết. Với đặc điểm nhận thức như trên thì quá trình nhận thức môn Toán của học sinh tiểu học được phát triển qua hai giai đoạn: – Giai đoạn đầu (Từ lớp 1 đến lớp 3): sự nhận thức còn mang tính trực quan. – Giai đoạn hai (Từ lớp 4 đến lớp 5): các hoạt động tri giác phát triển và được hướng dẫn bởi các hoạt động nhận thức khác nên chính xác dần. 2.1.2. Đặc điểm của môn toán ở Tiểu học Môn Toán nói chung và môn Toán ở tiểu học nói riêng ngoài những đặc điểm chung của Toán học còn có những đặc điểm riêng: a. Vào lớp 1, học sinh lần đầu tiên được tiếp xúc với môn Toán, cụ thể là được tiếp xúc với các đối tượng của môn Toán, các quan hệ Toán học, các phép toán của Toán học…Đó là cơ sở ban đầu để làm nền tảng cho quá trình học tập môn Toán sau này. Đặc biệt đó cũng là lần đầu tiên các em được làm quen và rèn luyện các thao tác tư duy trong môn Toán như: quan sát, so sánh, tổng hợp, chứng minh…vv. b. Nội dung môn Toán ở tiểu học không có cấu trúc thành những phân môn riêng biệt như các bậc học trên mà nó là một môn học thống nhất: bao gồm những mặt kiến thức chủ yếu có mối quan hệ hữu cơ với nhau và lấy kiến thức số học làm kiến thức cốt lõi. c. Cấu trúc nội dung môn Toán ở tiểu học quán triệt vào tư tưởng của Toán học hiện đại và phù hợp với từng giai đoạn phát triển của học sinh tiểu học. d. Các kiến thức, kỹ năng của môn Toán ở tiểu học được hình thành chủ yếu bằng thực hành, luyện tập và thường xuyên được ôn tập, củng cố phát triển, vận dụng trong học tập và trong đời sống. 2.1.3. Tầm quan trọng của dạy học giải toán ở Tiểu học: Giải toán là một thành phần quan trọng trong chương trình giảng dạy môn toán ở bậc tiểu học. Nội dung của việc giải toán gắn chặt một cách hữu cơ với nội dung của số học và số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản và các yếu tố đại số, hình học có trong chương trình. Vì vậy, việc giải toán có lời văn có một vị trí quan trọng thể hiện ở các điểm sau: a) Các khái niệm và các quy tắc về toán trong sách giáo khoa, nói chung đều được giảng dạy thông qua việc giải toán. Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm hoặc thiếu sót của các em về kiến thức, kỹ năng và tư duy để giúp các em phát huy hoặc khắc phục. b) Việc kết hợp học và hành, kết hợp giảng dạy với đời sống được thực hiện thông qua việc cho học sinh giải toán, các bài toán liên hệ với cuộc sống một cách thích hợp giúp học sinh hình thành và rèn luyện những kỹ năng thực hành cần thiết trong đời sống hàng ngày, giúp các em biết vận dụng những kỹ năng đó trong cuộc sống. c) Việc giải toán có thể giúp các em thấy được nhiều khái niệm toán học, ví dụ: các số, các phép tính, các đại lượng v.v… đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được các mối quan hệ biện chứng giữa các dữ kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm v.v.. d) Việc giải toán góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính tốt của con người lao động mới. Khi giải một bài toán, tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực vì các em cần phân biệt cái gì đã cho và caí gì cần tìm, thiết lập các mối liên hệ giữa các dữ kiện giữa cái đã cho và cái phải tìm; Suy luận, nêu nên những phán đoán, rút ra những kết luận, thực hiện những phép tính cần thiết để giải quyết vấn đề đặt v.v… Hoạt động trí tuệ có trong việc giải toán góp phần giáo dục cho các em ý trí vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, chu đáo làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo v.v… 2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Năm học 2016-2017 tôi được phân công giảng dạy lớp 3A5 Trường Tiểu học Điện Biên 2. Lớp 3A5 do tôi chủ nhiệm và giảng dạy có 41 học sinh. Trong đó: – Con cán bộ công chức: 27 em. – Con gia đìnhlao động tự do: 14 em. – Nam: 21 em; nữ: 20 em. Các em ở trong phường và rải rác trên toàn thành phố, có nhiều học sinh ở xa trường việc đi lại của các em gặp rất nhiều khó khăn điều đó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các em. *Qua quá trình giảng dạy ở trường tiểu học, đặc biệt là được đứng lớp ở lớp 3, tôi thấy: mặc dù mấy năm gần đây các nhà trường đã áp dụng phương pháp mới vào quá trình dạy học, học sinh được hoạt động nhiều hơn, khả năng tư duy, kĩ năng thực hành ở học sinh được phát triển nhiều hơn, xong ở các em vẫn còn một số hạn chế về năng lực tư duy, ở thói quen mà chưa thể khắc phục được: – Một số học sinh vẫn còn tình trạng ghi nhớ máy móc, khả năng phân tích tổng hợp chưa cao, sự chú ý của các em còn dễ bị chi phối, lôi cuốn vào trực giác gợi cảm bên ngoài, khả năng cảm nhận vào bản chất còn hạn chế. -Trong toán có lời văn thì thường là các em giải được những bài toán điển hình, bởi những bài toán này các em đã nắm được công thức tính cụ thể. Còn những bài toán không có dạng điển hình hoặc là đúng dạng nhưng phải qua một vài bước mới ứng dụng được công thức giải thì các em thường không biết làm như thế nào. Từ đó về căn bản chất lượng dạy và học toán có lời văn chưa cao. Sau khi khảo sát chất lượng môn toán đầu năm học vào thời điểm tháng 9/2016(năm học 2016 – 2017) kết quả giải toán của lớp 3A5 đạt được cụ thể như sau : Sĩ số Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành 41 em SL TL SL TL SL TL 20 em 48,8% 15em 36,5 % 6 em 14,7% Từ thực tế trên tôi đã tìm hiểu và rút ra một số nguyên nhân cơ bản sau: Về phía học sinh: -Các em chưa biết cách đọc hiểu đề toán để từ đó biết tóm tắt làm rõ nội dung của đề. Do đó các em chưa biết xác định hướng giải của bài toán là bắt đầu từ đâu. -Lời giải đặt chưa lô gíc với phép tính, lời giải còn thiếu ý, chưa hoàn chỉnh. – Học sinh có thể tiếp thu rất dễ dàng các phép tính số học nhưng khi gặp toán có lời văn các em còn lúng túng và dẫn đến không hứng thú với việc giải toán nên kết quả thực hành giải toán chưa cao. *Về phía giáo viên: -GV chưa tìm hiểu rõ những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cái sai của học sinh để tìm phương pháp dạy phù hợp giúp học sinh nắm được cách giải có hệ thống và vận dụng cách giải vào bất kì bài toán nào. – GV còn sử dụng phương pháp đàm thoại nhiều trong tiết học. -GV thường cho học sinh lên chữa bài khi mà lớp làm bài chưa xong dẫn đến học sinh dưới lớp chép bài của bạn mà không tự suy nghĩ để tìm ra hướng giải bài toán. Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải toán theo yêu cầu của chương trình mới, đó là điều cần phải trao đổi nhiều đối với chúng ta – những người trực tiếp giảng dạy cho các em nhất là việc: Đặt câu lời giải cho bài toán. Như chúng ta đã biết: Trước cải cách giáo dục thì đến lớp 4, các em mới phải viết câu lời giải, còn những năm đầu cải cách giáo dục thì đến học kì 2 của lớp 3 mới phải viết câu lời giảiNhưng với yêu cầu đổi mới của giáo dục thì hiện nay ngay từ lớp 1 học sinh đã được yêu cầu viết câu lời giải, đây quả là một bước nhảy vọt khá lớn trong chương trình toán. Nhưng nếu như nắm bắt được cách giải toán ngay từ lớp 1, 2, 3 thì đến các lớp trên các em dễ dàng tiếp thu, nắm bắt và gọt giũa, tôi luyện để trang bị thêm vào hành trang kiến thức của mình để tiếp tục học tốt ở các lớp sau. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề: Qua thực tế giảng dạy ở lớp 3 cũng như sự đúc rút từ kinh nghiệm bản thân và học hỏi đồng nghiệp tôi thấy: để nâng cao chất lượng môn toán ở lớp 3 đặc biệt là giải toán có lời văn, giáo viên nên thực hiện các biện pháp sau: 2.3.1 Tìm hiểu tâm lí học sinh, giúp học sinh có hứng thú học toán có lời văn. Đặc điểm hứng thú môn học Toán của học sinh Tiểu học hiện nay nhìn chung còn phân tán, chưa bền vững, chưa ổn định, chủ yếu là hứng thú gián tiếp . Một trong những nguyên nhân của hiện trạng này là do : việc giảng dạy chưa làm cho HS nhận thức rõ ý nghĩa của môn Toán , chưa thực sự tạo tính chủ động , sáng tạo trong quá trình giải toán , cũng như chưa tạo ra bầu không khí tích cực trong quá trình học toán . Nếu tăng cường một số biện pháp tâm lí sư phạm nhằm thay đổi những nguyên nhân trên theo hướng tích cực thì hứng thú học môn Toán ở học sinh Tiểu học sẽ được nâng cao . 2.3.2 Hướng cho học sinh tự suy nghĩ làm việc, không thụ động bằng cách biết tự lập kế hoạch giải toán Việc giải toán có lời văn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính tốt của con người lao động mới. Khi giải một bài toán, tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực vì các em cần phân biệt cái gì đã cho và cái gì cần tìm, thiết lập các mối liên hệ giữa các dữ kiện giữa cái đã cho và cái phải tìm . Suy luận, nêu lên những phán đoán, rút ra những kết luận, thực hiện những phép tính cần thiết để giải quyết vấn đề đặt ra v.v… Hoạt động trí tuệ có trong việc giải toán góp phần giáo dục cho các em ý chí vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, chu đáo làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo v.v… Các em biết tự lập kế hoạch giải toán mà không thụ động . 2.3.3 Khảo sát phân loại đối tượng học sinh . *Đối với giáo viên được phân công giảng dạy môn toán, để chất lượng học toán nói chung và giải toán có lời văn nói riêng đạt kết quả tốt thì việc đầu tiên là phải khảo sát chất lượng học sinh, phân loại đối tượng học sinh một cách cụ thể để tìm hiểu mức độ học tập ở các em, từ đó đề ra kế hoạch bồi dưỡng cụ thể, áp dụng biện pháp giảng dạy cho phù hợp với từng loại đối tượng học sinh. Những em tiếp thu việc giải toán chậm thì không yêu cầu các em phải giải tất cả các bài toán có trong chương trình mà tập trung rèn cho các em làm chắc dạng toán cơ bản, điển hình. Trong các giờ học không nên ép các em phải làm đủ số lượng bài như các bạn khác trong lớp mà chỉ cho các em làm số lượng bài vừa phải với lực học của mình, nên giao bài từ dễ đến khó và động viên các em kịp thời. Như vậy sẽ giúp cho các em đỡ chán nản khi phải giải những bài toán mà các em cho là khó. 2.3..4 Hướng dẫn học sinh nắm được các bước giải một bài toán: Thông thường nếu là dạng toán điển hình thì giáo viên sẽ hướng dẫn để học sinh nhận ra dạng toán và giải theo công thức của từng dạng. Vậy với dạng toán mà khác dạng hoặc qua những bước phụ mới tìm ra được dạng quen thuộc thì học sinh sẽ lúng túng, do đó cần phải hướng dẫn học sinh nắm được cách giải mà có thể giải được bất kì bài toán nào, dạng toán nào. Ta có thể hướng dẫn học sinh: Bước 1.Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề: GV không dùng phương pháp đàm thoại để hỏi “ Bài toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu tìm gì?” mà sử dụng cách khác, ví dụ như: +Gạch một gạch dưới những điều đã cho. +Gạch hai gạch dưới những điều cần tìm. *Tóm tắt đề toán: Từ bước tìm hiểu bài ở trên đã giúp học sinh tóm tắt bài toán một cách dễ dàng. Học sinh có thể dùng kí hiệu, sơ đồ … để tóm tắt một cách ngắn gọn nhất thể hiện rõ mối quan hệ giữa các yếu tố trong bài toán. Bước 2: Định hướng cho học sinh lập kế hoạch giải bài toán: Để giải được bài toán thì phải có hướng giải, do đó phải có kế hoạch để giải bài toán theo trình tự như thế nào cho hợp lí. Thường các bài toán giải trong toán lớp 3 thường được đưa ra ở 2 dạng chính đó là các bài toán điển hình đơn giản chỉ dựa vào công thức là có thể giải được. Dạng thứ 2 là các bài toán phức tạp hơn, phải qua một vài bước trung gian thì mới vận dụng công thức để giải. Đây là dạng toán có nhiều phép tính. Bước 3: Trình bày bài toán. Ví dụ: Sau khi đọc đề toán ở trang 50 SGK Toán 3. “ Thùng thứ nhất đựng 18 l dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ nhất 6l dầu. Hỏi cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu?”. – Yêu cầu học sinh tập nêu bằng lời để tóm tắt bài toán: Thùng 1 có : 18l . Thùng 2 có: nhiều hơn 6l. Hỏi cả hai thùng: ? lít dầu. – Sau khi học sinh nêu được bằng lời để tóm tắt bài toán, tôi hướng dẫn học sinh tập tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng: Thùng 1 Thùng 2 – Sau khi hướng dẫn học sinh tóm tắt được bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng, tôi tiếp tục hướng dẫn học sinh tìm lời giải: + Nhìn vào sơ đồ ta thấy muốn tìm số lít dầu ở cả hai thùng trước hết ta phải tính gì? ( Tính số dầu ở thùng thứ hai). Yêu cầu học sinh trình bày bằng lời nói. Lời giải và phép tính tương ứng. Thùng thứ hai đựng số lít dầu là: Học sinh nêu miệng phép tính: 18 + 6 = 24 (lít) Yêu cầu học sinh nêu miệng tiếp lời giải và phép tính thứ hai: Cả hai thùng đựng số lít dầu là: 18 + 24 = 42 (lít) – Giáo viên khuyến khích các em có cách đặt lời giải khác. Tuy nhiên ở phép tính thứ hai, tôi thấy có một số em thực hiện tìm số dầu cả hai thùng bằng cách lấy 24 + 6 = 30 (lít). Đối với những em này, tôi nhận thấy các em có khả năng tư duy chưa tốt, còn chưa nắm vững yêu cầu bài toán. Đây là những trường hợp nằm trong nhóm đối tượng học sinh chưa hoàn thành. Tôi phải hướng dẫn các em hiểu rõ: Muốn tìm số dầu cả hai thùng ta phải làm gì? để các em nêu được: Lấy số dầu thùng thứ nhất + số dầu ở thùng thứ hai và giúp cho các em thấy được số dầu ở thùng thứ nhất là 18l và số dầu ở thùng thứ hai là 24l. – Sau đó yêu cầu học sinh trình bày bài giải. – Ở dạng bài này, giáo viên cũng cần cho học sinh luyện nêu miệng đề toán và tập tóm tắt đề toán bằng sơ đồ đoạn thẳng nhiều lần để các em ghi nhớ một bài toán. Ví dụ: Bài tập 3 (trang 50 – SGK toán 3) Bao gạo Bao ngô – Tôi cho học sinh đọc thầm, đọc miệng tóm tắt rồi nêu đề toán bằng lời theo yêu cầu. Học sinh: Bao gạo nặng 27 kg. Bao ngô nặng hơn bao gạo 5kg. Hỏi cả hai bao gạo và ngô nặng
Cập nhật thông tin chi tiết về Đề Tài: Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 4 Giải Toán Có Lời Văn trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!