Xu Hướng 9/2023 # Đề Tài Nâng Cao Chất Lượng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 5 # Top 18 Xem Nhiều | Ictu-hanoi.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Đề Tài Nâng Cao Chất Lượng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 5 # Top 18 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Đề Tài Nâng Cao Chất Lượng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 5 được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO SƠN ĐỘNG TRƯỜNG TIỂU HỌC LONG SƠN Sáng kiến Kinh nghiệm: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5 Người thực hiện : Nguyễn Văn Quang Đơn vị công tác : Trường Tiểu học Long Sơn. Chuyên môn : Giảng dạy khối 4-5 Long Sơn ngày 20 tháng 5 năm 2013 *PHẦN THỨ NHẤT LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Năm học 2012-2013 tôi được nhà trường phân công dạy lớp 5A và bồi dưỡng học sinh giỏi môn toán. Quá trình giảng dạy, nghiên cứu và tìm hiểu tôi nhận thấy : Chương trình toán của tiểu học có vị trí và tầm quan trọng rất lớn. Toán học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về số học. Các số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản giải toán có lời văn ứng dụng thiết thực trong đời sống và một số yếu tố hình học đơn giản. Môn toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừ tượng hoá,khái quát hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, bằng viết các suy luận đơn giản góp phần rèn luyện phương phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt và sáng tạo. Mục tiêu nói trên được thông qua dạy học các môn học đặc biệt là môn toán. Môn này có tầm quan trọng vì toán học với tư cách là một bộ phận khoa học nghiên cứu hệ thống kiến thức cơ bản và sự nhận thức cần thiết trong đời sống sinh hoạt và lao động cần của con người. Môn toán là "chìa khoá" mở của các ngành khoa học khác,nó là côngcụ cần thiếtcủa người lao động trong thời đại mới. Vì vậy,môn toán là một bộ phận không thể thiếu được trong nhà trường,nó giúp con người phát triển toàn diện, góp phần tình cảm, trách nhiệm, niềm tin và sự phồn vinh của quê hương đât nước. Trong dạy-học toán ở tiểu học, việc giải toán có lời văn chiếm một vị trí quan trong. Có thể coi viêc dạy-học và giải toán là "lửa thử vàng" của dạy-học toán. Trong giải toán, học sinh phải tư duy một cách tích cực và linh hoạt, huy động tích cực các kiến thức và khả năng đã có vào tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp phải biết phát hiện những dữ kiện hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh. Và trong chừng mực nào đó biết suy nghĩ năng động sáng tạo. Vì vậy có thể coi giải toán có lời văn là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ của học sinh. Dạy học giải toán có lời văn ở tiểu học nhằm mục đích chủ yếu sau: -Giúp học sinh luyện tập củng cố vận dụng các kiến thức và thao tác thực hành đã học, rèn luyện kĩ năng tính toán bước tập dượt vận dụng kiến thức và rèn luyện kĩ năng thực hành vào thực tiễn. -Giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy rèn luyện phương pháp và kĩ năng suy luận khêu gợi và tập dượt khả năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi. -Rèn luyện cho học sinh những đặc tính và phong cách làm việc của người lao động như: Cẩn thận, chu đáo, cụ thể... Ở học sinh lớp 5, kiến thức toán đối với các em không còn là mới lạ, khả năng nhận thức của các em đã được hình thành và phát triển ở các lớp trước, tư duy đã bắt đầu có chiều hướng bền vững và đa dạng và đang ở giai đoạn phát triển vốn sống vốn hiểu biết thực tế bước đầu đã có những hiểu biết nhất định. Tuy nhiên trình độ nhận thức của các em không đồng đều, yêu cầu đặt ra khi giải toán có lời văn cao hơn những lớp trước, các em phải đọc nhiều, viết nhiều bài làm phải trả lời chính xác với phép tính, với các yêu cầu của bài toán đưa ra, nên thường vướng mắc về vấn đề trình bày bày bài giải: Sai sót do viết không đúng chính tả hoặc viết thiếu, viết từ thừa. Một sai xót đáng kể khác là học sinh thường không chú ý phân tích theo các điều kiện của bài toán nên đã lựa chọn sai phép tính. Với các lí do đó, trong học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng, việc học toán và giải toán có lời văn rất quan trọng và rất cần thiết. Để thực hiện tốt mục tiêu đó, giáo viên càn phải nghiên cứu, tìm biện pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em giải bài toán một cách vững vàng. Hiểu sâu được bản chất của vấn đề cần tìm, mặt khác giúp các em có phương pháp suy luận toán lôgíc thông qua cách trình bày, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện. Từ đó giúp các em húng thú, say mê học toán. Từ những căn cứ đó tôi đã chọn đề tài: "Nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5" để nghiên cứu với mục đích là: -Tìm hiểu nội dung, chương trình và những phương pháp đúng để giảng dạy toán có lời văn. -Tìm hiểu những kĩ năngcơ bản cần trang bị để phục vụ việc giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5. -Khảo sát và hướng dẫn giải cụ thể một số bài toán, một số dạng toán có lời văn ở lớp 5, từ đó đúc rút kinh nghiệm, đề xuất một số ý kiến góp phần nâng cao chất lượng dạy học và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu giải toán. *PHẦN THỨ HAI NỘI DUNG I.CƠ SỞ KHOA HỌC 1/ Cơ sở lý luận: Giải toán là một thành phần quan trọng trong chương trình giảng dạy môn toán ở bạc tiểu học. Nội dung của việc giải toán gắn chặt một cách hữu cơ với nội dung của số học và số học tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản và các yếu tố đại số , hình học có trong chương trình. Vì vậy, việc giải toán có lời văn có một vị trí quan trọng thể hiện ở các điểm sau: Các khái niệm và các qui tắc về toán trong sách giáo khoa, nói chung đều được giảng dạy thông qua việc giải toán. Việc giải toán giúp học sinh củng cố vận dụng các kiến thức, rèn luyện các kĩ năng tính toán. đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện ra những ưu điểm hoặc thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng và tư duy để giúp các em phát huy và khắc phục. Vệc kết hợp học và hành, kết hợp giảng dạy với đời sống được thực hiện thông qua việc cho học sinh giải toán, các bài toán liên hệ với cuộc sống một cách thích hợp giúp học sinh hình thành và rèn luyện những kĩ năng thực hành càn thiết trong đời sống hằng ngày giúp các em biết vận dụng những kĩ năng đó trong cuộc sống. việc giải toán góp phần quan trong việc xây dựng cho học sinh những cơ sở ban đầu của lòng yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, thế giới quan duy vật biện chứng: Việc giải toán với những đề tài thích hợp, có thể giới thiệu cho các em những thành tựu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và các nước bè bạn, trong công cuộc bảo vệ hoà bình của nhân dân thế giới, góp phần giáo dục các em bảo vệ môi trường, phát triển dân số có kế hoạch...Việc giải toán có thể giúp các em thấy được nhiều khái niệm toán học. Ví dụ: các số, các phép tính, các đại lượng... đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được các mối quan hệ biện chứng giữa các dữ kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm... Việc giải toán góp phần quan trọng vào rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính tốt của con người lao động mới. Khi giải một bài toán, tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực vì các em cần phân biệt cái gì dã cho và cái gì cần tìm, thiết lập mối quan hệ giữa các giữ kiện của bài toán giữa cái đã cho và cái phải tìm. Suy luận, nêu lên những phán đoán, rút ra những kết luận thực hiện phép tính cần thiết để giải quyết các vấn đề đặt ra...Hoạt động trí tuệ có trong trong việc giải toán góp phần giáo dục cho các em ý trí vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, chu đáo, làm việc có hiệu quả, có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, có thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, có óc độc lập, suy nghĩ sáng tạo, tự tìm ra những lời giải mới hay và ngắn gọn... *Nội dung chương trình toán lớp 5: 1. Ôn tập về số tự nhiên. 2. Ôn tập về các phép tính số tự nhiên. 3. ÔN tập dấu hiệu chia hết cho 2.3.5.9. 4. Phân số ôn tập, bổ sung. 5. Ôn tập các phép tính về phân số. 6. Số thập phân. 7. Các phếp tính về số thập phân. 8. Hình học-chu vi, diện tích, thể tích của một hình. 9. Số đo thời gian-Toán chuyển động đều. 2/ Cơ sở thực tiễn: Đề bài của bài toán có lời văn bao giờ cũng có hai phần: Phần đã cho hay còn gọi là giả thiết của bài toán. Phần phải tìm hay còn gọi là kết luận của bài toán. - Ngoài ra trong đề toán có nêu mối quan hệ giữa phần đã cho và phần phải tìm hay thực chất là các mối quan hệ tương quan phụ thuộc vào giả thiết và kết luận của bài toán. Quy trình giải toán có lời văn thường thông qua các bước sau: -Nghiên cứu kĩ đàu bài: Trước hết cần đọc cẩn thận bài toán, suy nghĩ về ý nghĩa của bài toán, nội dung bài toán, đặc biệt là chú ý đến câu hỏi của bài toán. Chớ vội tính toán khi chưa đọc kĩ đề toán. -Thiết lập mối quan hệ giữa các số đã cho và diễn đat nội dung bài toán bàng ngôn ngữ hoặc tóm tắt điều kiện bài toán, hoặc minh hoạ bằng sơ đồ hình vẽ. -Lập kế hoạch giải toán: Học sinh phải suy nghĩ xem để trả lời câu hỏi của bài toán cần thực hiện phép tính gì? Suy nghĩ xem từ số đã cho và điều kiện của bài toán có thể biết gì? Có thể làm phép tính gì? Phép tính đó có thể giúp trả lời câu hỏi của bài toán không? Trên các cơ sở đó, suy nghĩ để thiết lập trình tự giải toán. -Thực hiện phép tính theo trình tự kế hoạch đã thiết lập để tìm đáp số. Mỗi khi thực hiện phép tính càn kiểm tra xem đã tính đúng chưa? Phép tính được thực hiện có dựa trên cơ sở đúng đắn không? Giải xong bài toán, khi cần thiết, cần thử lại xem đáp số tìm được có trả lời đúng câu hỏi của bài toán, có phù hợp với các đièu kiện của bài toán không? Trong một số trường hợp, giáo viên nên khuyến khích học sinh tìm xem có cách giải khác gọn hơn không? Ví dụ 1: Thùng to có 26 lít dầu, thùng bé có 18 lít dầu. Dầu được chứa vào các chai như nhau, mỗi chai có 0,8 lít. Hỏi có tất cả bao nhiêu chai dầu? Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện bài toán trên bằng cách dùng phương pháp vấn đáp, kết hợp với minh hoạ bằng tóm tắt đề toán. +Phân tích nội dung đề toán: Giáo viên dùng hai câu hỏi: Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì? Để học sinh hiểu nội dung bài: Thùng to có 26 lít dầu. Thùng bé có 18 lít dầu. Mỗi chai chứa 0,8 lít dầu. Hỏi có tất cả có bao nhiêu chai dầu? +Tóm tắt bài toán : Theo những câu trả lời của học sinh, giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt như sau: Thùng to: 26 l Thùng bé:18 l Có :...... chai dầu? Tóm tắt trên chính là chỗ dựa cho học sinh tự tìm ra lời và phép tính tương ứng. +Thiết lập trình tự giải: Giáo viên đạt câu hỏi "Muốn biết có bao nhiêu chai dầu, ta phải làm thế nào? " Học sinh trả lời: "Trước hết ta phải tìm tổng số lít dầu có ở hai thùng, sau đó mới tìm tổng số chai đựng dầu". Bài giải Tổng số lít dầu ở hai thùng là: 26 + 18 =44 (l) Số chai đựng dầu là: 44 : 0,8 = 55 (chai ) Đáp số: 55 chai II. CÁC PHƯƠNG PHÁP DÙNG ĐỂ GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN 1/ Phương pháp trực quan: Nhận thức của trẻ từ 6 đến 11 tuổi còn mang tính cụ thể, gắn với các hình ảnh và hiện tượng cụ thể, trong khi đó kiến thức của môn toán lại có tính trừu tượng và khái quát cao. Sử dụng phương pháp này giúp học sinh có chỗ dựa cho hoạt động tư duy, bổ sung vốn hiểu biết, phát triển tư duy trừu tượng và vốn hiểu biết. Đối với học sinh lớp 5, việc sử dụng đồ dùng trực quan ít hơn các lớp trước và bớt dần đi việc đồ vật thật. Ví dụ: Khi dạy giải toán ở lớp 5, giáo viên có thể cho học sinh quan sát mô hình hoặc hình vẽ, sau đó lập tóm tắt đề bài rồi mới đến bước chọn phép tính. 2/Phương pháp gợi mở-vấn đáp: Đây là phương pháp cần thiết và thích hợp với học sinh ở tiểu học, rèn luyện cho học cách suy nghĩ, cách diễn đạt bằng lời, tạo niềm tin và khả năng học tập của từng học sinh. Để sử dụng tốt phương pháp này, giáo viên cần lựa chon hệ thống câu hỏi chính xác và rõ ràng, nhờ thế mà học sinh có thể nắm được ngay nội dung kiến thức từ đầu và giúp các em dễ dàng trả lời các câu hỏi. 3/ Phương pháp thực hành và luyện tập: Sử dụng phương pháp này thực hành luyện tập kiến thức, kĩ năng giải toán từ đơn giản đến phức tạp (chủ yếu ở các tiết luyện tập). Trong quá trình học sinh luyện tập, giáo viên có thể phối hợp các phương pháp như: Gợi mở, vấn đáp và giảng giải minh hoạ. 4/ Phương pháp sơ đồ đoạn thẳng: Giáo viên sử dụng sơ đồ đoạn thẳng để biểu diễn các đại lượng đã cho trong bài và mối liên hệ phụ thuộc giữa các đại lượng đó. Giáo viên phải chọn độ dài đoạn thẳng một cách thích hợp để học sinh dẽ dàng quan sát và thấy được mối liên hệ phụ giữa các đại lượng tạo ra hình ảnh cụ thể để giúp học sinh suy nghĩ, tìm tòi giải toán. 5/ Phương pháp giảng giải-minh hoạ: Khi cần giảng giải- minh hoạ, giáo viên cần nói gọn, rõ và kết hợp với gợi mở-vấn đáp. Giáo viên nên phối hợp giảng giải với hoạt động thực hành của học sinh (Ví dụ: Bằng hình vẽ, mô hình, vật thật...). Để học sinh phối hợp nghe, nhìn và làm, nên hạn chế sử dụng phương pháp này vì sẽ làm hạn chế khả năng tư duy lôgic và suy nghĩ sáng tạo của học sinh. III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢI CÁC BÀI TOÁN CÓ LỜI VĂN Ở LỚP 5 Muốn phân tích được tình huống, lựa chọn phép tính thích hợp, các em cần nhận thức được: Cái gì đã cho, cái gì cần tìm, mối quan hệ với cái đã cho và cái phải tìm. Trong bước đầu giải toán việc nhận thức và việc lựa chọn phép tinh với các em là một việc khó. Để giúp các em khắc phục khó khăn này, cần dựa vào hoạt động cụ thể của các em với vật thật, với mô hình, dựa vào hình vẽ, các sơ đồ toán học...Nhằm làm cho các em hiểu khái niệm "gấp" với phép nhân, khái niệm "một phần..." với phép chia trong tương quan giũa các mối quan hệ với bài toán. Trong một bài toán, câu hỏi có một chức năng quan trọng vì việc lựa chọn phép tính thích hợp được quy định không chỉ bởi các dữ kiện mà còn bởi các câu hỏi. Với cùng các dữ kiện như nhau có thể dặt các câu hỏi khác nhau, do đó việc lựa chọn phép tính cũng khác nhau. Việc thấu hiểu câu hỏi của bài toán là điều kiện căn bản để giải đúng các bài toán đó. Những trẻ em trong giai đoạn đầu khi mới giải toán chưa nhận thức được đầy đủ chức năng của câu hỏi trong bài toán. Để rèn luyện cho các em suy luận đúng, cần giúp các em nhận thức được chức năng quan trọng của câu hỏi trong bài toán. Câu hỏi của bài toán, đôi khi nêu cho các em bài toán vui không giải được. Chẳng hạn: "Trên cành cây có 10 con chim. Người thợ săn bắn rơi 2 con chim. Hỏi trong lồng còn mấy con chim?". Có em sẽ nhầm và trả lời là 8 con chim. Lúc đó giáo viên sẽ giải thích để học sinh nhận ra cái sai trong câu hỏi của bài toán. Đối với bài toán có lời văn ở lớp 5, chủ yếu là các bài toán hợp.Giải các bài toán hợp cũng có nghĩa là giải quyết các bài toán đơn. Mặt khác các dạng toán đều đã được học ở các lớp trước bao gồm hai nhóm chính như sau: Nhóm 1: Các bài toán hợp mà quá trình giải không theo một phương pháp thống nhất cho các bài toán đó. Nhóm 2: Các bài toán điển hình là các bài toán mà trong quá trình giải có phương pháp riêng cho từng dạng bài toán. Trong chương trình toán lớp 5 có những dạng toán điển hình sau: -Tìm số trung bình cộng. -Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đo. -Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó. -Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ của hai số đó. Người giáo viên phải nắm vững các dạng toán để có cách giải phù hợp. Giải toán là một hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp. hình thành kĩ năng giải toán khó hơn nhiều so với hình thành kĩ năng tính. Vì bài toán là sự kết hợp đa dạng nhiều khái niệm, quan hệ toán học. Giải toán không chỉ là nhớ mẫu để rồi áp dụng, mà đòi hỏi phải nắm chắc khái niệm, quan hệ toán học, nắm ý nghĩa của phép tính, đòi hỏi khả năng suy nghĩ độc lập của học sinh, đòi hỏi phải biết tính đúng. Các bước để giải một bài toán có lời văn ở tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng đã được đề cập ở một số cách về phương pháp giải toán ở bậc tiểu học. Ở đây tôi rút ra một số kinh nghiệm hướng dẫn: Phần đạt toán có lời văn ở lớp 5. Ở lớp 5, việc học phân số, học số thập phân, học về các đơn vị đo đại lượng...Cũng được kết hợp học các phép tính, học giải toán được kết hợp một cách hữu cơ để có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau. Việc dạy cho học sinh nắm được các phương pháp chung để giải toán được chú trọng ngay từ khi các em giải bài toán đầu tiên ở bậc tiểu học và sau này vẫn được thường xuyên quan tâm. Các em luôn được rèn luyện trong việc tìm hiểu đề toán, trong viẹc phân tích cái gì đã cho, cái gì phải tìm trong việc suy nghĩ tìm ra cách giải và trong việc thực hiện cách giải. Đặc biệt các em thường xuyên sử dụng việc tóm tắt bài toán bằng sơ đồ hình vẽ. Ví dụ 1: Bài toán về đại lượng tỉ lệ thuận. Một ô tô cứ một 100 km thì hết 12,5 l xăng. Hỏi ô tô đi quãng đường dài 120 km thì cần bao nhiêu lít xăng? Bài giải Số lít xăng cần để đi 1 km là: 12,5 : 100 = 0,125 (l) Số lít ô tô cần để đi quãng đường 60 km là: 0,125 x 120 = 15 (l) Đáp số : 15 lít xăng Ví dụ 2: Toán chuyển động đều. Một người đi hết quãng đường dài 11,52 km với vận tốc 4,5 km/giờ. Hỏi người đó đã đi hết bao nhiêu giờ và bao nhiêu phút? Bài giải Thời gian ô tô đi hết quãng đường là: 11,52 : 4,5 = 2,5 (giờ) = 2 giờ 30 phút. Đáp số: 2 giờ 30 phút. Ví dụ 3: Bài toán về tỉ lệ nghịch. Một đơn vị bộ đội có 45 người đã chuẩn gạo đủ ăn trong 15 ngày. Nhưng sau 5 ngày đơn vị đó nhận tiếp thêm 5 người nữa. Hãy tính xem số gạo còn lại đủ cho đơn vị ăn bao nhiêu ngày nữa, biết rằng các xuất ăn đều như nhau. Bài giải Số gạo còn lại đủ cho 45 người ăn trong số ngày là: 15 - 5 = 10 (ngày) Số người của đơn vị sau khi tăng là: 45 + 5 = 50 (người) Vì số gạo còn lại đủ cho 45 người ăn trong 10 ngày, nên nếu 1 người ăn số gạo đó thì sẽ đủ ăn trong số ngày là: 10 x 45 = 450 (ngày) Vậy 50 người ăn số gạo còn lại trong số ngày là: 450 : 50 = 9 (ngày) Đáp số: 9 ngày Ví dụ 4: Bài toán về nhân số thập phân với số thập phân. Một khu vườn hình chữ nhật có chiều dài 27,18 m, chiều rộng 9,4 m. Tính chu vi và diện tích khu vườn đó? Tóm tắt: Chiều dài: 27,18 m Chiều rộng: 9,4 m Chu vi: ? m; diện tích: ? m2 Bài giải Chu vi của khu vườn là: (27,18 + 9,4) x 2 = 72,96 (m) Diện tích khu vườn là: 27,18 x 9,4 = 255,492 (m2) Đáp số: Chu vi: 72,96 m Diện tích: 255,492 m2 Ví dụ 5: Bài toán về tỉ số phần trăm. Ngày thường mua 5 quả bóng bay hết 10.000 đồng . Cũng với số tền đó trong ngày lễ chỉ mua được 4 quả bóng bay như thế. Hỏi so với ngày thường thì giá bóng bay trong ngày lễ tăng hay giảm bao nhiêu phần trăm? Bài giải Giá tiền 1 quả bóng bay ngày thường là: 10000 : 5 = 2000 (đồng) Giá tiền 1 quả bóng bay trong ngày lễ là: 10000 : 4 = 2500 (đồng) Tỉ số phần trăm của giá bóng bay trong ngày lễ so với ngày thường là: 2500 : 2000 = 1,25 = 125% Coi giá bóng bay trong ngày thường là 100% thì giá bóng bay trong ngày lễ hơn ngày thường là: 125% - 100% = 25% Đáp số: 25% Đối với các bài toán có lời văn như trên, giáo viên nên khuyến khích học sinh tự nêu ra các giả thiết đã biết, cái cần phải tìm cách tóm tắt bài toán và tìm cách giải. Các phép tính giải chỉ là khâu thứ yếu mang tính kĩ thuật. Một số bài nâng cao dành cho học sinh khá giỏi: Đối với những đối tượng học sinh đã giải được và giải thành thạo các bài toán đơn cơ bản, thì việc đưa ra hệ thống bài tập nâng cao là rất quan trọng và cần thiết để cho học sinh có điều kiện phát huy năng lực trí tuệ của mình, vượt xa khỏi tư duy cụ thể mang tính chất ghi nhớ và áp dụng một cách máy móc trong công thức. Ví dụ 1: Nếu Kiên và Hiền cùng làm một công việc thì hoàn thành công việc trong 10 ngày. Sau 7 ngày cùng làm thì Kiên nghỉ việc , còn Hiền phải làm nốt phần việc còn lại trong 9 ngày nữa . Hãy tính xem nếu mỗi người làm riêng thì sau bao nhiêu ngày sẽ hoàn thành công việc đó? Bài giải Cách 1: Kiên và Hiền cùng làm trong 1 ngày được công việc. Kiên và Hiền cùng làm sau 7 ngày được: (công việc) Phần việc còn lại do Hiền làm là: (công việc) Mỗi ngày Hiền làm được là: (công việc) Số ngày Hiền làm một mình để xong công việc là: (ngày) Mỗi ngày Kiên làm được là: (công việc) Số ngày Kiên làm một mình hết công việc là: (ngày) Đáp số: Hiền: 30 ngày Kiên: 15 ngày Cách 2: Coi công việc là 10 phần bằng nhau thì Kiên và Hiền cùng làm được 7 phần , nên còn lại 3 phần đó (10-7=3) là do Hiền làm tiếp trong 9 ngày nữa. 3 phần làm trong 9 ngày. 1 phần làm trong: 9 : 3 = 3 (ngày) 10 phần làm trong: 3 x 10 = 30 (ngày) Vậy Hiền làm riêng thì sẽ xong công việc: Giả sử Hiền chỉ làm tiếp trong 3 ngày nữa thì mới thực hiện thêm 1 phần việc, còn 2 phần việc lẽ ra Kiên phải làm trong 3 ngày. Như thế Kiên phải làm nhanh gấp đôi Hiền. Vì vậy số ngày Kiên làm riêng để làm xong công việc là: 30 : 2 = 15 (ngày) Đáp số: Hiền: 30 ngày Kiên: 15 ngày Ví dụ 2: Có một số lít dầu và một số can. Nếu mỗi can chứa 5 l dầu thì còn thừa 5 l. Nếu mỗi can chứa 6 l dầu thì có 1 can không chứa dầu. Hỏi có bao nhiêu can, bao nhiêu lít dầu? Bài giải Nếu mỗi can chứa 5 l dầu thì còn thừa 5 l. Nếu mỗi can chứa 6 l dầu thì có một can không chứa dầu, Nghĩa là thêm 6 l dầu nữa thì không còn thừa một can nào nữa. Do đó số dầu để chứa đủ mỗi can 6 l sẽ nhiều hơn số dầu để chứa mỗi can 5 l là: 5 + 6 = 11 (l) 6 l dầu nhiều hơn 5 l dầu là: 6 - 5 = 1 (l) Số can có là: 11 : 1 = 11 (can) Có 11 can, mỗi can chứa 5 l còn thừa 5 thì số dầu có là: 5 x 11 + 5 = 60 (l) Đáp số: 11 can 60 l dầu Ví dụ 3: Lớp 5A tham gia học may, ngày thứ nhất có 1/6 số học sinh của lớp và 2 em, ngày thứ hai có 1/4 số học sinh còn lại và 1 em tham gia, ngày thứ ba có 2/5 số học sinh còn lại sau hai ngày và 3 em, ngày thứ tư có 1/3 số còn lại và 1 em tham gia. Cuối cùng còn lại 5 em chưa tham gia. Hỏi lớp 5A có bao nhiêu học sinh? Tóm tắt: ? em Số học sinh: Ngày 1: số HS và 1 em Ngày 2: số HS còn lại và 1 em Ngày 3: số HS còn lại và 3 em Ngày 4: số HS còn lại và 1 em 5 em Bài giải Số học sinh còn lại sau khi tham gia ngày thứ ba là: (5 + 1) : 2 x 3 = 9 (em) Số học sinh còn lại sau ngày thứ hai là: (9 + 3 ) : 3 x 5 = 20 (em) Số học sinh còn lại sau ngày thứ nhất là: (20 + 1) :3 x 4 = 28 (em) Số học sinh lớp 5A là: (28 +2 ) : 5 x 6 = 36 (em) Đáp số: 36 em * PHẦN THỨ BA KẾT QUẢ ÁP DỤNG NĂM HỌC 2012-2013 Qua một thời gian nghiên cứu đề ra một số biện pháp giải toán có lời văn ở lớp 5, tôi đã mạnh dạn tổ chức chuyên đề này về phương pháp, về cách tổ chức giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5A của tôi, trong năm học: 2012-2013. Kết quả đạt được cụ thể như sau: Thời gian kiểm tra Tổng số HS Kết quả Giỏi Khá TB SL % SL % SL % Giữa kì I 30 10 33,3 15 50,0 5 16,7 Cuối kì I 30 15 50,0 12 40,0 3 10,0 Giữa kì II 30 18 60,0 12 40.0 Cuối năm 30 20 66.7 10 33.3 Từ những kết quả thống kê nêu trên, tôi thấy dạy giải toán có lời văn ở lớp 5 không chỉ những giúp cho học sinh củng cố, vận dụng các kiến thức đã học, mà còn giúp cho các em phát triển năng lực tư duy, óc sáng tạo, tính kiên trì trong học toán và vận dụng thực hành vào thực tiễn trong cuộc sống. *PHẦN THỨ TƯ KẾT LUẬN-ĐỀ XUẤT I KẾT LUẬN Hướng dẫn và giúp học sinh giải toán có lời văn nhằm giúp các em phát triển tư duy trí tuệ, tư duy phân tích và tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa, rèn luyện tốt phương pháp suy luận lôgic. Bên cạnh đó, đây là là một dạng toán rất gần gũi với đời sống thực tế với học sinh. Do vậy, có thể nói đây là một nhiệm vụ của mỗi người giáo viên đứng lớp. Việc giảng dạy toán có lời văn một cách hiệu quả giúp các em trở thành những con người linh hoạt, sáng tạo, làm chủ trong mọi lĩnh vực và trong cuộc sống thực tế hằng ngày. Những kết quả mà chúng tôi đã thu được trong quá trình nghiên cứu không phải là cái mới so với kiến thức chung về môn toán ở bạc tiểu học song lại là cái mới đối với bản thân tôi. Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã phát hiện và rút ra nhiều điều lý thú về nội dung và phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở bậc tiểu học. Tôi tự cảm thấy mình được bồi dưỡng thêm lòng kiên trì , nhẫn nại, sự ham muốn, lòng say sưa với nghiên cứu tìm tòi trong công việc dạy học, nhằm đem lại sự tươi sáng cho học sinh và niềm đam mê cho chính bản thân. Tuy nhiên, đề tài này của tôi đang trong giai đoạn đầu nghiên cứu và áp dụng trong lĩnh vực khoa học nên không tránh khỏi những khiếm khuyết. Tôi mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo Hội đồng khoa học các cấp , các bạn đồng nghiệp và những ai quan quan tâm đến vấn đề: "Giải toán có lời văn" cho học sinh ở bậc tiểu học nói chung, và "Giải toán có lời văn" ở lớp 5 nói riêng. II MỘT SỐ ĐỀ XUẤT Qua thực tế giảng dạy môn toán ở trường tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng. Tôi thấy người giáo viên phải luôn

Đề Tài Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 5

ợc vận dụng kiến thức và rèn luyện kỹ năng thực hành vào thực tiễn. -Giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kỹ năng suy luận, khêu gợi và tập dượt khả năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi. -Rèn luyện cho học sinh những đặc tính và phong cách làm việc của người lao động, như: cẩn thận, chu đáo, cụ thể..... Ở học sinh lớp 5, kiến thức toán đối với các em không còn mới lạ, khả năng nhận thức của các em đã được hình thành và phát triển ở các lớp trước, tư duy đã bắt đầu có chiều hướng bền vưỡng và đang ở giai đoạn phát triển. Vốn sống, vốn hiểu biết thực tế đã bước đầu có những hiểu biết nhất định. Tuy nhiên trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều, yêu cầu đặt ra khi giải các bài toán có lời văn cao hơn những lớp trước, các em phải đọc nhiều, viết nhiều, bài làm phải trả lời chính xác với phép tính, với các yêu cầu của bài toán đưa ra, nên thường vướng mắc về vấn đề trình bày bài giải: sai sót do viết không đúng chính tả hoặc viết thiếu, viết từ thừa. Một sai sót đáng kể khác là học sinh thường không chú ý phân tích theo các điều kiện của bài toán nên đã lựa chọn sai phép tính. Với những lý do đó, trong học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp Năm nói riêng, việc học toán và giải toán có lời văn là rất quan trọng và rất cần thiết. Để thực hiện tốt mục tiêu đó, giáo viên cần phải nghiên cứu, tìm biện pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em giải bài toán một cách vững vàng, hiểu sâu được bản chất của vấn đề cần tìm, mặt khác giúp các em có phương pháp suy luận toán lôgic thông qua cách trình bày, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện. Từ đó giúp các em hứng thú, say mê học toán. Từ những căn cứ đó chúng tôi đã chọn đề tài " Một số biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5'' để nghiên cứu, với mục đích là: - Tìm hiểu nội dung, chương trình và những phương pháp dùng để giảng dạy toán có lời văn. - Tìm hiểu những kỹ năng cơ bản cần trang bị để phục vụ việc giải toán có lời văn cho học sinh lớp Năm. - Khảo sát và hướng dẫn giải cụ thể một số bài toán, một số dạng toán có lời văn ở lớp Năm, từ đó đúc rút kinh nghiệm, đề xuất một số ý kiến góp phần nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn. II NỘI DUNG A. CƠ SỞ KHOA HỌC: 1 / Cơ sở lý luận: Giải toán là một thành phần quan trọng trong chương trình giảng dạy môn toán ở bậc tiểu học. Nội dung của việc giải toán gắn chặt một cách hữu cơ với nội dung của số học và số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản và các yếu tố đại số, hình học có trong chương trình. Vì vậy, việc giải toán có lời văn có một vị trí quan trọng thể hiện ở các điểm sau: a) Các khái niệm và các quy tắc về toán trong sách giáo khoa, nói chung đều được giảng dạy thông qua việc giải toán. Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm hạc thiếu sót của các em về kiến thức, kỹ năng và tư duy để giúp các em phát huy hoặc khắc phục. b) Việc kết hợp học và hành, kết hợp giảng dạy với đời sống được thực hiện thông qua việc cho học sinh giải toán, các bài toán liên hệ với cuộc sống một cách thích hợp giúp học sinh hình thành và rèn luyện những kỹ năng thực hành cần thiết trong đời sống hàng ngày, giúp các em biết vận dụng những kỹ năng đó trong cuộc sống. c) Việc giải toán góp phần quan trọng trong việc xây dựng cho học sinh những cơ sở ban đầu của lòng yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, thế giới quan duy vật biện chứng: việc giải toán với những đề tài thích hợp, có thể giới thiệu cho các em những thành tựu trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta và các nước Anh em, trong công cuộc bảo vệ hoà bình của nhân dân thế giới, góp phần giáo dục các em ý thức bảo vệ môi trường, phát triển dân số có kế hoạch v.v... Việc giải toán có thể giúp các em thấy được nhiều khái niệm toán học, ví dụ: các số, các phép tính, các đại lượng v.v... đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được các mối quan hệ biện chứng giữa các dữ kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm v.v.. d) Việc giải toán góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính tốt của con người lao động mới. Khi giải một bài toán, tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực vì các em cần phân biệt cái gì đã cho và caí gì cần tìm, thiết lập các mối liên hệ giữa các dữ kiện giữa cái đã cho và cái phải tìm; Suy luận, nêu nên những phán đoán, rút ra những kết luận, thực hiện những phép tính cần thiết để giải quyết vấn đề đặt ra v.v... Hoạt động trí tuệ có trong việc giải toán góp phần giáo dục cho các em ý trí vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, chu đáo làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo v.v... * Nội dung chương trình Toán lớp 5: 1/ Ôn tập về số tự nhiên. 2/ Ôn tập về các phép tính số tự nhiên. 3/ Dấu hiệu chia hết cho 2, 5, 3, 9. 4/ Phân số( ôn tập bổ sung). 5/ Các phép tính về phân số. 6/ Số thập phân. 7/ Các phép tính về số thập phân. 8/ Hình học - chu vi, điện tích, thể tích của một hình. 9/ Số đo thời gian - Toán chuyển động đều. 2/ Cơ sở thực tiễn: Đề bài của bài toán có lời văn bao giờ cũng có hai phần: - Phần đã cho hay còn gọi giả thiết của bài toán. - Phần phải tìm hay còn gọi kết luận của bài toán. Ngoài ra, trong đề toán có nêu mối quan hệ giữa phần đã cho và phần phải tìm hay thực chất là mối quan hệ tương quan phụ thuộc vào giả thiết và kết luận của bài toán. Quy trình giải toán có lời văn thường thông qua các bước sau: - Nghiên cứu kỹ đầu bài: Trước hết cần đọc cẩn thận đề toán, suy nghĩ về ý nghĩa bài toán, nội dung bài toán, đặc biệt chú ý đến câu hỏi bài toán. Chớ vội tính toán khi chưa đọc kỹ đề toán. - Thiết lập mối quan hệ giữa các số đã cho và diễn đạt nội dung bài toán bằng ngôn ngữ hoặc tóm tắt điều kiện bài toán, hoặc minh hoạ bằng sơ đồ hình vẽ. - Lập kế hoạch giải toán: học sinh phải suy nghĩ xem để trả lời câu hỏi của bài toán phải thực hiện phép tính gì? Suy nghĩ xem từ số đã cho và điều kiện của bài toán có thể biết gì, có thể làm tính gì, phép tính đó có thể giúp trả lời câu hỏi của bài toán không? Trên các cơ sở đó, suy nghĩ để thiết lập trình tự giải toán. - Thực hiện phép tính theo trình tự đã thiết lập để tìm đáp số. Mỗi khi thực hiện phép tính cần kiểm tra đã tính đúng chưa? Phép tính được thực hiện có dựa trên cơ sở đúng đắn không?... Giải xong bài toán, khi cần thiết, cần thử xem đáp số tìm được có trả lời đúng câu hỏi của bài toán, có phù hợp với các điều kiện của bài toán không? Trong một số trường hợp, giao viên nên khuyến khích học sinh tìm xem có cách giải khác gọn hay không? Ví dụ 1: Thùng to có 21 lít nước mắm, thùng bé có 15 lít nước mắm. Nước mắm được chứa vào các chai như nhau, mỗi chai có 0,75 lít. Hỏi có tất cả bao nhiêu chai nước mắm? Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện bài toán trên bằng cách dùng phương pháp hỏi đáp, kết hợp với minh hoạ bằng tóm tắt đề toán. + Phân tích nội dung bài toán: Giáo viên dùng hai câu hỏi: Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì? Để học sinh thấy rõ nội dung: - Thùng to có 21 lít nước mắm. - Thùng nhỏ có 15 lít nước mắm. - Mỗi chai chứa 0,75 lít nước mắm. - Hỏi có tất cả bao nhiêu chai nước mắm ? + Tóm tắt bài toán: Theo những câu trả lời của học sinh, giao viên hướng dẫn học sinh tóm tắt như sau: Thùng to: 21 lít. Thùng nhỏ : 15 lít. Có ... chai nước mắm ? Tóm tắt trên chính là chỗ dựa cho học sinh tìm ra trình tự giải và phép tính tương ứng. + Thiết lập trình tự giải: Giao viên đặt câu hỏi: " Muốn biết có bao nhiêu chai nước mắm, ta làm thế nào?" Học sinh trả lời: " Trước hết ta phải tìm tổng số nước mắm có ở cả hai thùng; sau đó mới tìm tổng số chai đựng nước mắm". + Tìm phép tính và thực hiện phép tính: Học sinh tự đặt lời giải và làm như sau: Bài giải Tổng số nước mắm ở hai thùng là: 21 + 15 = 36 (lít ) Số chai đựng nước mắm là: 36 : 0,75 = 48 ( chai) Đáp số: 48 chai. B . CÁC PHƯƠNG PHÁP DÙNG ĐỂ DẠY GIẢI BÀI TOÁN CÓ LỜI VĂN: 1/ Phương pháp trực quan: Nhận thức của trẻ từ 6 đến 11 tuổi còn mang tính cụ thể , gắn với các hình ảnh và hiện tượng cụ thể, trong khi đó kiến thức của môn toán lại có tính trừu tượng và khái quát cao. Sử dụng phương pháp này giúp học sinh có chỗ dựa cho hoạt động tư duy, bổ xung vốn hiểu biết, phát triển tư duy trừu tượng và vốn hiểu biết. Ví dụ: khi dạy giải toán ở lớp Năm, giáo viên có thể cho học sinh quan sát mô hình hoặc hình vẽ, sau dó lập tóm tắt đề bài qua, rồi mới đến bước chọn phép tính. 2/ Phương pháp thực hành luyện tập: Sử dụng phương pháp này để thực hành luyện tập kiến thức, kỹ năng giải toán từ đơn giản đến phức tạp ( Chủ yếu ở các tiết luyện tập ). Trong quá trình học sinh luyện tập, giáo viên có thể phối hợp các phương pháp như: gợi mở - vấn đáp và cả giảng giải - minh hoạ. 3/ Phương pháp gợi mở - vấn đáp: Đây là phương pháp rất cần thiết và thích hợp với học sinh tiểu học, rèn cho học sinh cách suy nghĩ, cách diễn đạt bằng lời, tạo niềm tin và khả năng học tập của từng học sinh. 4/ Phương pháp giảng giải - minh hoạ: Giáo viên hạn chế dùng phương pháp này. Khi cần giảng giải - minh hoạ thì giáo viên nói gọn, rõ và kết hợp với gợi mở - vấn đáp. Giáo viên nên phối hợp giảng giải với hoạt động thực hành của học sinh ( Ví dụ: Bằng hình vẽ, mô hình, vật thật...) để học sinh phối hợp nghe, nhìn và làm. 5/ Phương pháp sơ đồ đoạn thẳng: Giáo viên sử dụng sơ đồ đoạn thẳng để biểu diễn các đại lượng đã cho ở trong bài và mối liên hệ phụ thuộc giữa các đại lượng đó. Giáo viên phải chọn độ dài các đoạn thẳng một cách thích hợp để học sinh dễ dàng thấy được mối liên hệ phụ thuộc giữa các đại lượng tạo ra hình ảnh cụ thể để giúp học sinh suy nghĩ tìm tòi giải toán. C . MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢI CÁC BÀI TOÁN CÓ LỜI VĂN Ở LỚP 5: Muốn phân tích được tình huống, lựa chọn phép tính thích hợp, các em cần nhận thức được: cái gì đã cho, cái gì cần tìm, mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm. Trong bước đầu giải toán, việc nhận thức này, việc lựa chọn phép tính thích hợp đối với các em là một việc khó. Để giúp các em khắc phục khó khăn này, cần dựa vào các hoạt động cụ thể của các em với vật thật, với mô hình, dựa vào hình vẽ , các sơ đồ toán học.... nhằm làm cho các em hiểu khái niệm " gấp " với phép nhân, khái niệm " một phần ... " với phép chia" trong tương quan giữa các mối quan hệ trong bài toán. Trong một bài toán, câu hỏi có một chức năng quan trọng vì việc lựa chọn phép tính thích hợp được quy định không chỉ bởi các dữ kiện mà còn bởi các câu hỏi. Với cùng các dữ kiện như nhau có thể đặt các câu hỏi khác nhau do đó việc lựa chọn phép tính cũng khác nhau, việc thấu hiểu câu hỏi của bài toán là điều kiện căn bản để giải đúng bài toán đó. Nhưng trẻ em ở giai đoạn đầu khi mới giải toán chưa nhận thức được đầy đủ chức năng của câu hỏi trong bài toán. Để rèn luyện cho các em suy luận đúng, cần giúp các em nhận thức được chức năng quan trọng của câu hỏi trong bài toán. Muốn vậy có thể dùng biện pháp: thường xuyên gợi cho các em phân tích đề toán để xác định cái đã cho, cái phải tìm, các dữ kiệm của bài toán , câu hỏi của bài toán, đôi khi nêu cho các em bài toán vui không giải được, chẳng hạn: " trên cành cây có 10 con chim, người thợ săn bắn rơi 2 con. Hỏi trong lồng còn mấy con chim?" có em sẽ nhẩm và trả lời là 8 con, lúc đó giáo viên sẽ giải thích để học sinh nhận ra cái sai trong câu hỏi của bài toán. Đối với toán có lời văn ở lớp 5, chủ yếu là các bài toán hợp, giải bài toán cũng có nghĩa là giải quyết các bài toán đơn. Mặt khác các dạng toán đều đã được học ở các lớp trước, bao gồm hai nhóm chính như sau: a) Nhóm 1: Các bài toán hợp mà quá trình giải không theo một phương pháp thống nhất cho các bài toán đó. b) Nhóm 2: Các bài toán điển hình, các bài toán mà trong quá trình giải có phương pháp riêng cho từng dạng bài toán. Trong chương trình toán 5 có những dạng toán điển hình sau: - Tìm số trung bình cộng. - Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó. - Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó. - Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ số của hai số đó. Người giáo viên phải nắm vững các dạng toán để khi hướng dẫn học sinh giải toán sẽ tổ chức cho học sinh trước hết xác định dạng toán để có cách giải phù hợp. Giải toán là một hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp. Hình thành kỹ năng giải toán khó hơn nhiều so với hình thành kỹ năng tính vì bài toán là sự kết hợp đa dạng nhiều khái niệm, nhiều quan hệ toán học. Giải toán không chỉ là nhớ mẫu để rồi áp dụng , mà đòi hỏi nắm chắc khái niệm, quan hệ toán học, nắm chắc ý nghĩa của phép tính, đòi hỏi khả năng độc lập suy luận của học sinh, đòi hỏi biết tính đúng. Các bước để giải một bài toán có lời văn ở tiểu học nói chung và lớp Năm nói riêng đã được đề cập ở một số sách về phương pháp giải toán ở bậc tiểu học. ở đây tôi rút ra một số kinh nghiệm hướng dẫn: Phần dạy toán có lời văn ở lớp Năm. Ở lớp 5 việc học phân số, học số thập phân, học về các đơn vị đo đại lượng ... cũng được kết hợp học các phép tính, học giải toán được kết hợp một cách hữu cơ để có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau. Việc dạy cho học sinh nắm được phương pháp chung để giải toán được chú trọng ngay từ khi các em giải bài toán đầu tiên ở đầu bậc tiểu học và sau này vẫn được thường xuyên quan tâm, các em luôn được rèn luyện trong việc tìm hiểu đề toán, trong việc phân tích cái gì đã cho, cái gì phải tìm trong việc suy nghĩ tìm ra cách giải và trong việc thực hiện cách giải. Đặc biệt, các em được thường xuyên sử dụng việc tóm tắt đề toán bằng sơ đồ, hình vẽ. Ví dụ1: Bài 5 ( tr 120 SGK Toán 5) Bài toán về đại lượng tỉ lệ thuận. Một làng lát ngõ, cứ 100 kg xi măng thì lát được 2,5 m. Ngõ làng dài 240 m. Tính số tấn xi măng phải mua ? Bài giải Số xi măng lát một mét ngõ là: 100 : 2,5 = 40 (kg) Số xi măng phải mua để lát ngõ là: 40 x 240 = 9600 (kg) = 9,6 (tấn) Đáp số: 9,6 tấn. Ví dụ 2: Bài 3 ( tr 193 SGK Toán 5) Toán chuyển động đều. Một ô tô đi hết quãng đường dài94,5 km với vận tốc 42 km / giờ. Hỏi ô tô đó đã đi hết bao nhiêu giờ và bao nhiêu phút ? Bài giải Thời gian ô tô đi hết quãng đường là: 94,5 : 42 = 2,25 (giờ) = 2 giờ 15 phút Đáp số: 2 giờ 15 phút. Ví dụ 3: Bài 4 (tr 125 SGK Toán 5) Toán về tỉ lệ nghịch. Một đội thợ xây dựng có 8 người xây xong một bức tường trong ngày. Hỏi muốn xây xong bức tường đó trong 4 ngày thì cần bao nhiêu thợ xây (sức làm ngang nhau). Tóm tắt: ngày cần: 8 người 4 ngày cần: ? người Bài giải: ngày = ngày Xây xong trong 1 ngày thì cần số thợ là: 8 x = 44 (thợ) Xây xong trong 4 ngày thì cần số thợ là: 44 : 4 = 11 (thợ) Đáp số: 11 thợ. Ví dụ 4:Bài 3 (tr94) Bài toán về nhân số thập phân với số thập phân. Một vườn cây hình chữ nhật có chiều dài 15,62 m, chiều rộng 8,4 m. Tính chu vi và diện tích vườn cây đó. Tóm tắt: Chiều dài: 15,62 m Chiều rộng: 8,4 m Chu vi: ? m; Diện tích: ? Bài giải: Chu vi vườn cây hình chữ nhật là: ( 15,62 + 8,4 ) x 2 = 48,04 (m) Diện tích vườn cây hình chữ nhật là: 15,62 x 8,4 = 131,208 (m2) Đáp số: 1) 48,08 m 2) 131,208 m2 Đối với các bài toán có lời văn như trên, giáo viên nên khuyến khích học sinh tự nêu ra các giả thiết đã biết, cái cần phải tìm, cách tóm tắt bài toán và tìm đường lối giải. Các phép tính giải chỉ là khâu thứ yếu mang tính kĩ thuật. D Một số bài nâng cao dành cho dành cho học sinh khá, giỏi: Đối với những đối tượng học sinh đã giải được và giải thành thạo các bài toán đơn cơ bản, thì việc đưa ra hệ thống bài tập nâng cao là rất quan trọng và cần thiết để cho học sinh có điều kiện phát huy năng lực trí tuệ của mình, vượt xa khỏi tư duy cụ thể mang tính chất ghi nhớ và áp dụng một cách máy móc trong công thức. Qua đó phát triển trí thông minh cho học sinh. Ví dụ 1: Hai người thợ cùng làm chung một công việc thì sau 5 giờ sẽ xong. Sau khi làm được 3 giờ thì người thợ cả bận việc phải nghỉ, chỉ còn người thợ thứ hai phải làm nốt công việc còn lại trong 6 giờ. Hỏi nếu mỗi người thợ làm một mình thì mất mấy giờ mới xong công việc ? Bài giải: Hai người làm chung thì hết 5 giờ mới xong. Vậy mỗi giờ 2 người làm được công việc. Trong 3 giờ, hai người làm được là: x 3 = (công việc) Phân số chỉ công việc người thứ hai làm một mình là: 1 - = (công việc) Mỗi giờ người thứ hai làm được là: : 6 = (giờ) Thời gian người thứ hai làm một mình là: 1 : = 15 (giờ) Mỗi giờ người thứ nhất làm được là: - = (công việc) Thời gian người thứ nhất làm một mình là: 1 : = 7 giờ = 7 giờ 30 phút Đáp số: 1) 7 giờ 30 phút; 2) 15 giờ. Ví dụ 2: Mạnh, Hùng, Dũng và Minh có 1 số quyển vở. Mạnh lấy số vở để dùng, Hùng lấy còn lại, Dũng lấy còn lại, cuối cùng Minh dùng nốt 8 quyển vở. Hỏi lúc đầu cả 4 bạn có tất cả bao nhiêu quyển vở ? Tóm tắt: Mạnh Hùng Dũng Minh 8 vở Bài giải: Số vở của Dũng và Minh là: 8 : 2 x 3 = 12 (quyển) Số vở của Dũng, Minh, và Hùng là: 12 : 2 x 3 = 18 (quyển) Số vở của 4 bạn lúc đầu là: 18 : 2 x 3 = 27 (quyển) Đáp số: 27 quyển. E KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU: Qua một thời gian nghiên cứu đề ra một số biện pháp giải toán có lời văn ở lớp 5, chúng tôi đã mạnh dạn đề xuất với Ban Giám hiệu tổ chức thực hiện chuyên đề toán, về phương pháp, về cách giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 đã được nâng cao và đạt hiệu quả cao. Do vậy đã được triển khai áp dụng thực hiện ở các lớp trong khối 5. - Kết quả đạt được cụ thể ở lớp 5A như sau: Thời gian kiểm tra Tổng số học sinh Kết quả Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % Giữa kỳ I 35 26 74,3 4 11,4 5 14,3 0 0 Cuối kỳ I 35 Từ những kết quả đạt được nêu trên, chúng tôi thấy dạy học giải toán có lời văn ở lớp 5 không những chỉ giúp cho học sinh củng cố vận dụng các kiến thức đã học, mà còn giúp các em phát triển tư duy, sáng tạo trong học toán và biết vận dụng thực thành vào thực tiễn cuộc sống. III KẾT LUẬN - ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ A. KẾT LUẬN: Hướng dẫn và giúp học sinh giải toán có lời văn nhằm giúp các em phát triển tư duy trí tuệ, tư duy phân tích và tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá, rèn luyện tốt phương pháp suy luận lôgic. Bên cạnh đó đây là dạng toán rất gần gũi với đời sống thực tế. Do vậy, việc giảng dạy toán có lời văn một cách hiệu quả giúp các em trở thành những con người linh hoạt, sáng tạo, làm chủ trong mọi lĩnh vực và trong cuộc sống thực tế hàng ngày. Những kết quả mà chúng tôi đã thu được trong quá trình nghiên cứu không phải là cái mới so với kiến thức chung về môn toán ở bậc tiểu học, song lại là cái mới đối với bản thân tôi. Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã phát hiện và rút ra nhiều điều lý thú về nội dung và phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở bậc tiểu học. Chúng tôi tự cảm thấy mình được bồi dưỡng thêm lòng kiên trì, nhẫn lại, sự ham muốn, say xưa với việc nghiên cứu. Tuy nhiên đề tài này của tôi là giai đoạn đầu nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học nên không thể tránh khỏi những kiến khuyết. Chúng tôi mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, của các bạn đồng nghiệp và những ai quan tâm đến vấn đề giải toán có lời văn cho học sinh ở bậc tiểu học nói chung, giải Toán có lời văn ở lớp 5 nói riêng. B . MỘT SỐ ĐỀ XUẤT: Qua thực tế giảng dạy môn toán ở Trường tiểu học nói chung và

“Nâng Cao Chất Lượng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 5”

Qua tìm hiểu thực tế việc dạy – học giải toán có lời văn cho HS lớp 5, tôi thấy cả GV và HS gặp một số vướng mắc sau:

Với GV: Khi hướng dẫn cho HS giải toán thường qua loa, đại khái, không đi sâu vào bước nhận dạng bài toán. Mặt khác GV thường bỏ qua bước tóm tắt bài toán, bước tìm cách giải bài toán làm sơ qua, chỉ tập trung vào bước giải bài toán. Khi học sinh giải xong, GV thường bỏ qua bước kiểm tra cách giải. Ngoài ra, một số giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi để dẫn dắt còn chưa rõ ràng mạch lạc, câu hỏi khó hiểu dẫn đến việc hướng dẫn học sinh giải toán chưa hiệu quả.

Với HS: Thông thường HS mới chỉ đọc đề bài toán chứ chưa có thói quen thiết lập mối quan hệ giữa các yếu tố trong bài toán. Tức là chưa liên kết được các yếu tố đã cho và yếu tố cần tìm. Nhiều khi học sinh còn ghi câu lời giải còn chưa phù hợp với phép tính giải.

Từ thực tế đó, tôi nghiên cứu, tìm hiểu cả các nguyên nhân khác dẫn đến học sinh làm không đúng các dạng bài toán có lời văn và chọn đề tài “Nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5″ với mong muốn đưa ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học toán và giúp học sinh lớp 5 biết cách giải bài toán có lời văn đạt hiệu quả cao hơn.

2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến. 2.1. Điều kiện.

– Cơ sở vật chất: Có đủ đồ dùng học tập như SGK, sách tham khảo,….

2.2. Thời gian: Năm học 2023 -2023

2.3. Đối tượng áp dụng sáng kiến.

– Giáo viên: giáo viên giảng dạy khối lớp 5 trong các trường tiểu học.

– HS lớp 5 trong tất cả các trường tiểu học học theo chương trình hiện hành.

3.Nội dung sáng kiến: 3.1. Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến:

Tính mới, tính sáng tạo trong sáng kiến ” Nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho HS lớp 5″ của tôi đưa ra 6 giải pháp nhưng tập trung vào 2 nội dung chính đó là : Tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến những sai lầm của HS khi giải toán có lời văn và hướng cho HS nắm chắc quy trình 5 bước giải cho một bài toán có lời văn.

3.2. Khả năng áp dụng của sáng kiến:

Sáng kiến là định hướng cho GV có được những biện pháp giúp HS nâng cao chất lượng giải toán nhất là đối với HS khá giỏi. HS sẽ phát triển được bài toán, nâng cao năng lực tư duy, tạo điều kiện cho các em tự học, tự sáng tạo trên cơ sở những gì đã biết.

Với 6 giải pháp đã mô tả rõ trong sáng kiến của tôi nhằm giúp HS nâng cao chất lượng giải toán có lời văn không chỉ áp dụng cho GV và HS lớp 5 mà GV các lớp dưới như 2,3,4 cũng có thể áp dụng.

3.3. Lợi ích thiết thực của sáng kiến

Các giải pháp trong sáng kiến của tôi đưa ra không yêu cầu sự nghiên cứu quá công phu của GV mà chỉ cần GV tâm huyết, yêu nghề, quan tâm đến HS. Còn HS thì tập trung học tập, thực hiện đúng sự chỉ dẫn của GV.

Sau một thời gian áp dụng các giải pháp trong sáng kiến của tôi vào giảng dạy, kết quả cho thấy : HS được củng cố vững chắc về vồn ngôn ngữ Toán học.

Từ đó làm tiền đề cho HS hiểu sâu, nắm chắc, hiểu rõ nội dung đề toán.

3.4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến

HS nắm chắc được quy trình giải bài toán, phát triển được cho HS khả năng mở rộng, nâng cao dữ kiện bài toán và tìm tòi nhiều cách giải khác nhau. HS không còn ngại và cảm thấy khó khăn khi giải toán có lời văn. Ngoài ra, HS còn được rèn luyện tính cẩn thận khi giải toán, đó là : luôn có ý thức kiểm tra lại lời giải của bài toán nhắm tránh sai sót khi tính toán.

4. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến.

Sau khi áp dụng sáng kiến vào giảng dạy, tôi thấy HS không chỉ làm tốt các bài toán trong chương trình SGK lớp 5 thuộc các dạng toán điển hình đã học như : bài toán về trung bình cộng, tổng-hiệu, hiệu-tỉ,… mà còn nhiều em HS còn có khả năng tự làm các bài toán ở mức độ nanng cao trong sách Ôn luyện và Kiểm tra Toán 5. Trong khi những bài toán này đối với HS ở các lớp khác cần có sự hỗ trợ từ phía GV thì HS mới làm được. Điều đó chứng tỏ rằng sáng kiến mà tôi đưa ra đã góp phần nhiều trong việc nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho HS.

– Tiếp tục áp dụng sáng kiến ở các lớp 5, đồng thời theo dõi để có biện pháp khắc phục những nội dung chưa phù hợp trong nghiên cứu, áp dụng.

– Có biện pháp thực nghiệm với từng lớp, từng đối tượng học sinh theo mức độ yêu cầu khác nhau.

1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.

Trong dạy – học toán ở tiểu học, việc dạy giải toán có lời văn chiếm một vị trí vô cùng quan trọng . Vì toán có lời văn là cầu nối giữa toán học với đời sống xã hội. Mỗi bài toán đều được gắn liền với đời sống thực tiễn, các số liệu, các đơn vị trong cuộc sống là các đơn vị trong toán học. Vì thế, toán có lời văn chính là cầu vận chuyển kiến thức từ thực tiễn vào toán học.Thông qua toán có lời văn rèn cho các em có khả năng tư duy, suy luận và cách diễn đạt chi tiết, chính xác. Học sinh phải tư duy một cách tích cực và linh hoạt, huy động tích cực các kiến thức và khả năng đã có vào những tình huống khác nhau. Trong nhiều trường hợp, phải biết phát hiện những dữ kiện hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường tận và trong chừng mực nào đó, phải biết suy nghĩ năng động, sáng tạo. Vì vậy có thể coi giải toán có lời văn là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ ở học sinh.

Qua tìm hiểu thực tế việc dạy – học giải toán có lời văn cho HS lớp 5, tôi thấy cả GV và HS gặp một số vướng mắc sau:

Với GV: Khi hướng dẫn cho HS giải toán thường qua loa, đại khái, không đi sâu vào bước nhận dạng bài toán. Mặt khác GV thường bỏ qua bước tóm tắt bài toán, bước tìm cách giải bài toán làm sơ qua,chỉ tập trung vào bước giải bài toán. Khi học sinh giải xong, GV thường bỏ qua bước kiểm tra cách giải. Ngoài ra, một số giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi để dẫn dắt còn chưa rõ ràng mạch lạc, câu hỏi khó hiểu dẫn đến việc hướng dẫn học sinh giải toán chưa hiệu quả.

Với HS: Thông thường HS mới chỉ đọc đề bài toán chứ chưa có thói quen thiết lập mối quan hệ giữa các yếu tố trong bài toán. Tức là chưa liên kết được các yếu tố đã cho và yếu tố cần tìm. Nhiều khi học sinh còn ghi câu lời giải chưa phù hợp với phép tính giải.

2. Cơ sở lí luận

Từ thực tế đó, tôi nghiên cứu, tìm hiểu cả các nguyên nhân khác dẫn đến học sinh làm không đúng các dạng bài toán có lời văn và chọn đề tài “Nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5″ với mong muốn đưa ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học toán và giúp học sinh lớp 5 biết cách giải bài toán có lời văn đạt hiệu quả cao hơn.

Toán học có vị trí rất quan trọng phù hợp với cuộc sống thực tiễn đó cũng là công cụ cần thiết cho các môn học khác và để giúp học sinh nhận thức thế

giới xung quanh, để hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn.

Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn toán rất to lớn, nó có khả năng phát triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề có suy luận, có khoa học toàn diện, chính xác, có nhiều tác dụng phát triển trí thông minh, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt…, góp phần giáo dục ý chí nhẫn nại, ý chí vượt khó của học sinh.

3. Thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến:

Trong chương trình môn toán tiểu học, giải toán có lời văn giữ một vai trò quan trọng. Thông qua việc giải toán các em thấy được nhiều khái niệm toán học như : các số, các phép tính, các đại lượng, các yếu tố hình học…, trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các sự kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua việc giải toán đã rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy, tính cẩn thận, óc sáng tạo, cách lập luận bài toán trước khi giải, giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp học sinh phát huy những mặt đạt được và khắc phục những mặt thiếu sót.

Qua khảo sát chất lượng đầu năm và qua thực hiện giảng dạy lớp 5 trong những năm gần đây, tôi thấy học sinh lớp 5 trường tôi thường gặp sai lầm khi giải toán có lời văn do những nguyên nhân sau:

HS không hiểu khái niệm, kí hiệu toán học.

HS không nắm vững quy tắc, công thức, tính chất toán học.

Không logic trong suy luận.

Không nắm vững các phương pháp giải các bài toán điển hình.

Không thấy được mối quan hệ giữa các yếu tố toán học.

Tính toán nhầm lẫn, không cẩn thận trong làm bài.

Diễn đạt, trình bày lời giải của bài toán còn hạn chế.

4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện: 4.1. Tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến sai lầm của học sinh khi giải toán có lời văn.

Trước tình hình thực tế đó, trong quá trình dạy học, tôi đã lựa chọn phương pháp dạy học, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với từng bài cụ thể, từng đối tượng học sinh; giúp học sinh hiểu rõ mối quan hệ giữa các yếu tố đã cho và các yếu tố cần tìm. Từ đó giúp các em nắm chắc cách làm, phát triển năng lực tư duy toán học cho học sinh và góp phần từng bước nâng cao chất lượng dạy Toán.

4.1.1. Nguyên nhân 1: Hiểu không đầy đủ, chính xác các khái niệm toán học.

Xuất phát từ đặc điểm nhận thức của HS tiểu học là nhận thức cảm tính còn chiếm ưu thế nên phần lớn các khái niệm toán học được đưa vào chương trình tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng chủ yếu hình thành biểu tượng toán học thông qua trực quan hoặc từ các ví dụ cụ thể, sinh động. Điều này có ưu điểm là phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học. Tuy nhiên mặt hạn chế là thiếu tính chặt chẽ, chính xác và tổng quát. Do đó dễ xuất hiện các sai lầm về khái niệm toán học. Từ đó dẫn tới suy luận sai và kết quả sai khi giải toán có lời văn. Các sai lầm mục 1 và 2(phần thực trạng ) cho thấy học sinh chưa nắm vững các khái niệm như tỉ số, tỉ số phần trăm,….

4.1.2.Nguyên nhân 2: Không nắm vững các quy tắc, công thức, tính chất toán học.

Hay thực tế cho thấy: biểu tượng hình học của học sinh tiểu học còn hạn chế, do vậy học sinh thường gặp khó khăn khi xác định các yếu tố đáy, đường cao của hình tam giác, hình thang, đặc biệt là khi các hình này có sự thay đổi về hình dạng, góc độ quan sát.

Ở bậc tiểu học, việc phát triển tư duy toán học cho học sinh được gắn liền với việc vận dụng các quy tắc, công thức, tính chất toán học thông qua giải các bài toán có lời văn. Do đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học là nhận thức cảm tính còn chiếm ưu thế trong khi các quy tắc, công thức, tính chất toán học lại mang tính khái quát và trừu tượng cao nên học sinh gặp rất nhiều khó khăn khi vận dụng vào giải toán, nhất là với học sinh có lực học trung bình yếu.

Biểu hiện là dễ lẫn lộn các bước tính, nhầm lẫn khi vận dụng công thức tính diện tích, chu vi, thể tích,…của các hình đã học. Kĩ năng vận dụng các công thức toán học còn hạn chế. Đó là những bài toán ngược lại với những gì đã học (tìm được diện tích tam giác khi biết đáy, chiều cao tương ứng nhưng lại không tính được đáy khi biết diện tích và chiều cao tương ứng).

4.1.3. Nguyên nhân 3 : Học sinh còn thiếu các kiến thức cần thiết về logic.

Khi giải toán có lời văn đòi hỏi học sinh phải suy luận. Quá trình suy luận rất cần đến những kiến thức về logic, đặc biệt là các quy tắc suy luận logic. Khi đứng trước một bài toán có lời văn học sinh thường vận dụng một cách máy móc những gì đã được học mà không suy nghĩ được vì sao ta vận dụng công thức, quy tắc này mà không vận dụng công thức, quy tắc kia, vì sao ta giải toán theo cách này mà không giải theo cách kia. Sự thiếu hụt năng lực tư duy logic còn là nguyên nhân của những sai lầm khi HS diễn đạt, trình bày lời giải.

4.1.4. Nguyên nhân 4 : Học sinh không nắm vững phương pháp giải các bài toán cơ bản.

4.1.5. Nguyên nhân 5 : Học sinh yếu kĩ năng chuyển một bài toán về dạng cơ bản.

Phương pháp giải các bài toán cơ bản giữ vị trí quan trọng trong giải bài toán có lời văn vì phần lớn các bài toán trong SGK tiểu học đều được xây dựng từ những bài toán cơ bản (toán điển hình). Không nắm đượcvững các phương pháp giải các bài toán cơ bản thì khó có thể giải quyết trọn vẹn các bài tập trong SGK và không thể giải quyết các bài toán có nội dung nâng cao khi mà các tình huống đã có sự biến đổi.

Thực tế là không ít HS đã không nắm vững phương pháp giải các bài toán cơ bản (mặc dù nắm vững quy tắc, công thức toán học). Biểu hiện là không nhớ hoặc lẫn lộn các dạng toán học : khi học dạng toán mới thì lại quên dạng toán cũ. Do không nắm vững phương pháp giải các bài toán cơ bản nên học sinh thường mắc sai lầm ngay từ những bước giải đầu tiên.

4.2: Hướng dẫn học sinh nắm vững các kiến thức về môn toán.

Trong chương trình toán 5, các bài toán được xây dựng từ những bài toán cơ bản nhưng có sự thay đổi điều kiện để tăng độ khó như tăng yếu tố, đại lượng. Ví dụ trong toán chuyển động đó là sự tham gia của hai động tử và xuất phát và kết thức chuyển động ở những thời điểm khác nhau. Do không nhận ra các dấu hiệu bản chất, không nhận ra sự tương đồng của bài toán biến đổi với bài toán cơ bản, HS không có khả năng chuyển bài toán về dạng cơ bản, đơn giản hơn.

4.1.6. Nguyên nhân 6 : Học sinh còn hạn chế về vốn từ và kĩ năng sử dụng Tiếng Việt.

Sự hạn chế về vốn từ và kĩ năng sử dụng tiếng Việt đã gây nên nhiều khó khăn cho học sinh khi đặt câu trả lời cho các phép tính.

Một trong những nguyên nhân chủ yếu của các sai lầm là do trình độ còn yếu. Trong đó có thể là học sinh không nắm vững kiến thức cơ bản về môn Toán. Chính vì vậy, khi truyền thụ giáo viên cần lưu ý : – Nắm vững các kiến thức về môn toán ở tiểu học nhằm hạn chế những sai lầm mà học sinh gặp phải trong giải toán.

– Để tránh các sai lầm, GV cần tổ chức các hoạt động nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Học sinh chủ động nắm kiến thức bằng chính “lao động” của mình. Vì vậy phương pháp dạy học đóng vai trò không nhỏ trong việc phòng ngừa các sai lầm cho học sinh. Nếu học sinh được làm quen với các hệ thống phương pháp dạy học mới, được khêu gợi trí sáng tạo, biết phát hiện và giải quyết vấn đề thì học sinh sẽ tự tin, năng động, tạo tâm thế vững vàng khi giải Toán. Cụ thể để học sinh không mắc sai lầm khi tìm hiểu đề toán và khi trình bày bài giải của bài toán, tôi đã thực hiện các công việc như sau:

4.2.1. Dạy các khái niệm toán học để HS tránh được sai lầm khi giải toán.

-Vốn : tương ứng với giá mua hay chi phí ban đầu.

-Lãi (hay lời) : bằng giá bán trừ giá mua.

– Giá bán: bao gốm cả vốn lẫn lãi.

Với một số bài toán có nội dung thực tế, tôi cho học sinh thấy rõ ý nghĩa của một số từ : ngày công, kế hoạch, chi tiêu,…

4.2.2. Dạy các quy tắc, công thức, tính chất toán học.

Ở bậc Tiểu học, các quy tắc, công thức nhìn chung chỉ yêu cầu học sinh nhớ và biêt vận dụng, không yêu cầu chứng minh quy tắc,công thức, tính chất,.. bằng các bảng biểu, sơ đồ. Do vậy, tôi thường xuyên kiểm tra các quy tắc, tính chất, công thức trong các tiết học. Chỉ có ôn tập, củng cố thường xuyên thì học sinh mới nhớ lâu, nhớ chính xác những gì các em đã được học.

4.2.3. Ôn luyện, củng cố cho HS phương pháp giải các bài toán điển hình.

Việc thường xuyên ôn tập và củng cố lại bước giải các bài toán điển hình sẽ giúp học sinh tránh được sai lầm là lẫn lộn giữa các dạng toán. Từ lời giải một bài toán cụ thể, tôi đã gợi ý cho HS phương pháp giải một số bài toán tương tự. Việc tổng kết và hệ thống lại các phương pháp giải toán là việc nên làm trong quá trình dạy học toán. Công việc trên nếu được tiến hành có hiệu quả sẽ giúp HS hạn chế được các sai lầm khi giải toán.

4. 3: Trang bị cho học sinh nắm chắc quy trình giải cho một bài toán có lời văn. (Đây chính là một trong những khâu quan trọng nhất trong việc nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh).

Ở lớp 5, các bài toán có lời văn đều có dạng điển hình và đã có cách giải được trình bày tương đối kĩ trong SGK (phần hình thành kiến thức mới).

Tuy nhiên, để giải được từng bài toán cụ thể một cách chính xác và khoa học đòi hỏi phải có suy luận và vận dụng kiến thức một cách sáng tạo chứ không đơn thuẩn áp dụng công thức một cách máy móc. Vấn đề đặt ra là cần một đường lối chung khi giải quyết các bài toán có lời văn. Đây là vấn đề cốt lõi, quan trọng trong giải toán. Muốn giải bài toán tốt và tránh được những sai lầm vừa nêu, tôi đã giúp HS nắm các bước chung khi giải một bài toán có lời văn theo quy trình 5 bước như sau:

Bước 1. Đọc thật kĩ đề toán, xác định được đâu là cái đã cho, đâu là cái cần tìm.

-HS phải xác định chính xác cái đã cho, cái cần tìm.

-Hướng sự tập trung suy nghĩ của HS vào những từ quan trọng trong đề toán, phải hiểu ý nghĩa của một số từ cần thiết trong đề.

– Hướng dẫn học sinh nắm được những gì thuộc về bản chất của đề toán, những gì không thuộc về bản chất của đề để hướng sự chú ý vào chỗ cần thiết.

Bước 2. Tóm tắt đề toán.

Có thể tóm tắt đề toán bằng nhiều cách khác nhau tùy từng bài toán cụ thể như:

Sơ đồ, hình vẽ, kí hiệu ngắn gọn… Thông qua đó thiết lập mối quan hệ giữa những cái đã cho và cái cần tìm.

Khi tóm tắt bài toán cần gạt bỏ những gì là thứ yếu, lặt vặt trong đề toán, tìm cách biểu diễn chúng bằng hình vẽ hoặc dùng ngôn ngữ, kí hiệu ngắn gọn để ghi lại thật vắn tắt, thật cô đọng sao cho hợp lí.

Bước 3. Phân tích bài toán để tìm lời giải:

Để phân tích bài toán , tôi hướng dẫn học sinh tập trung suy nghĩ vào câu hỏi của bài toán. Muốn trả lời được câu hỏi đó thì phải biết những gì hoặc làm những phép tính gì. Trong những cái cần phải biết đó, cái nào đã có sẵn trong đề bài, cái nào cần phải tìm. Muốn tìm được cái này thì phải biết những gì? Phải làm tiếp phép tính gì…Cứ như vậy ta suy ngược lên cho tới kết quả cuối cùng của bài toán. Từ những cách suy luận, phân tích như thế, tôi đã giúp HS tìm ra con đường tính toán đúng và nhanh nhất.

Bước 4. Giải bài toán và thử lại kết quả.

Dựa vào kết quả phân tích ở bước 3, xuất phát từ những điều đã cho trong đề toán, tôi hướng dẫn HS lần lượt thực hiện viết lời giải và thực hiện các phép tính để tìm ra đáp số. Tôi cũng lưu ý HS cần chú ý thử lại sau khi làm xong từng phép tính cũng như thử lại đáp số xem đã phù hợp với đề toán chưa; xem lại câu lời giải của các phép tính đã đủ ý và phù hợp chưa?…..

Bước 5. Khai thác bài toán ( bước này dành cho HS năng khiếu: HS tìm cách giải khác nhau và tương tự với bài toán vừa làm hoặc có thể thay đổi một số dữ kiện của bài toán).

Sau khi giải xong bài toán, tôi hướng HS là cần suy nghĩ xem:

– Có những cách nào nữa không để giải bài toán?

– Từ bài toán này có thể rút ra nhận xét và kinh nghiệm gì?

– Từ bài toán này có thể phát triển, đưa ra bài toán khác như thế nào? Giải chúng ra sao? Mối quan hệ xuôi ngược thế nào?…v.v…

” Một tam giác có đáy dài 12cm. Độ dài đáy gấp 3 lần chiều cao. Hỏi diện tích tam giác là bao nhiêu”.

Bước 1: Tôi yêu cầu HS đọc kĩ đề toán, xác định được đâu là cái đã cho, đâu là cái cần tìm.

Ở bài toán này cái đã cho là :

– Đáy tam giác dài 12cm.

– Độ dài đáy gấp 3 lần chiều cao.

Bài toán hỏi : Diện tích tam giác?

Bước 2. Tóm tắt đề toán.

Ta có thể vẽ sơ đồ đoạn thẳng như sau để tóm tắt:

Ở đây đoạn thẳng thứ nhất để mô tả đáy tam giác là 12cm.

Để mô tả điều kiện thứ 2, ta chia đoạn thẳng thứ nhất làm 3 phần bằng nhau và vẽ đoạn thẳng biểu thị chiều cao tam giác là một phần như thế. Để mô tả câu hỏi của bài toán, ta vẽ dấu móc ôm lấy cả 2 đoạn đáy và chiều cao kèm theo dấu hỏi(?) Thể hiện Muốn tìm diện tích tam giác thì cần biết cả hai điều kiện đó là : Độ dài đáy và chiều cao tam giác.

Bước 3. Hướng dẫn HS phân tích bài toán để tìm lời giải:

Tôi đã hướng dẫn HS lập luận, phân tích bài toán như sau:

(1) Bài toán hỏi gì? (Diện tích tam giác)

(2) Muốn biết diện tích ta làm thế nào ( Đáy x chiều cao: 2)

(3) Đáy biết chưa? (Biết rồi) Bao nhiêu ?( 12cm)

(4) Chiều cao biết chưa? ( Chưa biết). Chiều cao có quan hệ như thế nào với đáy? ( Đáy gấp 3 lần chiều cao)

Chiều cao tam giác là : 12: 3 = 4 (cm) Điện tích tam giác là 12 x3 :2 = 18 (cm2)

(5) Vậy muốn tìm chiều cao, ta làm như thế nào? (Lấy độ dài đáy chia cho 3)

Bước 4. Giải bài toán và thử lại kết quả.

Dựa vào kết quả phân tích ở bước 3, ta đi ngược từ (5) đến (1) để thực hiện phép tính và viết lời giải như sau:

Để thử lại phép tính 12 : 3 = 4, ta tính xem 4 x3 xem có bằng 12 không? Hoặc 18 x2 có bằng 12 x3 không,….

Bước 5. Khai thác bài toán (Dành cho HS năng khiếu)

Tôi đã hướng học sinh thay thế một số dữ kiện của bài toán để có thể tạo ra bài toán mới và tìm cách giải tương tự như:

(1) Có thể đặt bài toán mới từ bài toán này không? Chẳng hạn: Một tam giác có đáy là 12cm. Chiều cao bằng một phần ba đáy. Tính diện tích tam giác?

4. 4 : Rèn cho HS có thói quen tự kiểm tra phát hiện sai lầm trong giải toán.

Hay thay điều đã cho bằng đáp số và đặt câu hỏi thay bằng điều phải tìm như: Biết một tam giác có đáy 18 cm2, độ dài đáy là 12 cm. Tính chiều cao của tam giác đó.

(2)Ta rút được kinh nghiệm hoặc nhận xét gì từ bài toán này?

Chẳng hạn: Đọc kĩ đề toán để thấy được không phải cứ thấy “gấp 3” là vội vàng tính ngay bằng phép nhân như lấy 12 x3 = 36. Nhiều khi trong bài có từ “gấp…lần” nhưng lại giải bằng phép chia.

– Đa số học sinh thường bằng lòng với việc tìm ra đáp án của bài toán có lời văn mà không chú ý đến khâu kiểm tra lại lời giải.

– Bên cạnh việc hình thành thói quen tự kiểm tra lời giải,GV cũng cần trang bị cho HS các phương pháp nhận biết một lời giải sai. Các sai lầm thường bộc lộ bởi các dấu hiệu. GV cần trang bị cho HS kỹ năng nhận biết các dấu hiệu quan trọng sau đây :

– Dấu hiệu thứ nhất : Kết quả tìm được mâu thuẫn với thực tế. Các bài toán có lời văn thường đề cập đến những tình huống gần gũi với thực tế. Ở đây, giả sử rằng bài toán đã phù hợp với thực tế mà nếu kết quả mâu thuẫn thực tế thì lời giải sai. Các mâu thuẫn thường gặp : bộ phận tìm được lại lớn hơn tổng thể hoặc ngược lại (VD: Số HS nữ tìm được lại lớn hơn số học sinh toàn trường, số sản phẩm đạt chuẩn lớn hơn tổng số sản phẩm).

4. 5: Theo dõi sai lầm của HS khi giải toán qua các giai đoạn.

-Dấu hiệu thứ hai : Kết quả tìm được mâu thuẫn với một yếu tố nào đó trong đề bài.

Giai đoạn 1 : Sai lầm chưa xuất hiện

-Dấu hiệu thứ 3 : Sai đơn vị (danh số). Chẳng hạn, bài toán yêu cầu tìm thời gian của một chuyển động mà đáp số lại là đơn vị đo dộ dài (quãng đường).

Giai đoạn 2 : Sai lầm xuất hiện trong lời giải của HS

– Ngoài ra, khi giải toán mà không sử dụng hết dữ kiện đề bài thì cũng có thể đã mắc sai lầm.

Giải đoạn 3 : Sai lầm được phân tích và sửa chữa

Biện pháp chủ yếu trong giai đoạn này là trang bị tốt về kiến thức bộ môn toán, kiến thức về phương pháp giải toán. Một số điều cần lưu ý ở giai đoạn này, GV có thể dự báo trước các sai lầm, thể hiện qua nhắc nhở và lưu ý của GV đối với HS. Chẳng hạn ở bài toán trên, tôi đã lưu ý HS phải chuyển các đơn vị đo kích thước về cùng một đơn vị là m.

Giải pháp 6 : Trau dồi kinh nghiệm ngôn ngữ cho HS

Đây là giai đoạn đòi hỏi GV phải kết hợp được những yêu cầu : kịp thời, chính xác và giáo dục, cùng với sự tích cực hóa hoạt động học tập của HS để vận dụng các hiểu biết về kiểm tra lời giải nhằm tìm ra sai lầm, phân tích nguyên nhân và tìm hướng giải quyết. GV có thể sử dụng các hình thức dạy học như : Dạy học phát hiện và giải quyế vấn đề, dạy học phân hóa đối tượng học sinh… Ngược lại, nếu giai đoạn này GV không kịp thời phân tích và sửa chữa các chỗ sai của HS thì sai lầm sẽ ngày càng trầm trọng, ảnh hưởng sâu sắc đến kết quả dạy- học.

– Ở ví dụ trên, nếu GV phát hiện thấy có học sinh sai như: (chưa đổi về cùng đơn vị đo mà đã giải toán) thì tôi đã dùng câu hỏi gợi ý để học sinh tự tìm ra chỗ sai của mình và để HS sửa lại cho đúng. Tôi cũng tổ chức cho HS trong nhóm bàn có thể đổi chéo bài kiểm tra. HS so sánh bài làm của mình với của bạn để biết mình đã sai ở bước nào và tìm ra cách sửa. Cuối cùng, GV nhấn mạnh những chỗ sai mà học sinh mắc phải trong bài toán, nhắc nhở HS cách khắc phục.

Một sai lầm của HS tuy đã được GV phân tích và sửa chữa, vẫn có nguy cơ tái diễn. Vì vậy, tôi thường xuyên theo dõi để kịp thời nhắc nhở các em tránh mắc lỗi.

-Việc HS học tốt môn tiếng Việt cũng góp phần rất quan trọng trong quá trình giải toán có lời văn của học sinh. Học sinh sẽ biết đặt những câu trả lời chính xác, khoa học, diễn đạt trôi chảy, rõ ràng; lập luận chặt chẽ, logic. Do vậy, trong một bài toán, tôi thường gợi mở để HS tự đặt được nhiều lời giải khác nhau phù hợp với nội dung bài toán. Tuy nhiên, tôi cũng khuyến khích các em lựa chọn những lời giải nào ngắn gọn, hay nhất để ghi vào bài.

5. Kết quả

Sửa chữa các sai lầm khi giải toán là việc làm cấp thiết và cần tiến hành thường xuyên trong quá trình giải toán. Nếu một sai lầm không được sửa chữa kịp thời sẽ dẫn đến nhiều sai lầm khác cho HS.

Mỗi GV nếu nắm bắt được các sai lầm phổ biến của HS khi giải toán, đồng thời biết phân tích và sử dụng các biện pháp và hình thức dạy học thích hợp thì chắc chắn năng lực giải toán của học sinh sẽ được cải thiện rõ rệt.

Qua quá trình nghiên cứu và thực nghiệm các biện pháp như trong sáng kiến tại năm học 2023- 2023 và năm học này khi giảng dạy các bài toán có lời văn cho học sinh lớp 5, tôi thấy kết quả thu được như sau: Học sinh dễ hiểu bài hơn, nhớ sâu hơn, vận dụng linh hoạt hơn vào việc giải các bài toán có lời văn. Kĩ năng giải các bài toán được hình thành qua nhiều bài luyện tập như tìm hiểu bài toán, phân tích các dữ kiện đầu bài, lập kế hoạch giải toán và trình bày lời giải rất nhanh, rất khoa học,…

Ngoài ra các em còn rất hứng thú và yêu thích học toán, không thấy ngại khi giải toán có lời văn nữa. Kết quả học tập của các em đã được nâng lên rõ rệt. Từ chỗ học sinh giải những bài toán đơn giản còn chưa thạo mà nay đa số các em đã giải được những bài tập nâng cao cùng dạng. Kết quả cụ thể là tôi tiến hành thực nghiệm trên 32 em học sinh ở lớp 5A mà tôi chủ nhiệm trong học kì 1 năm học 2023 – 2023 so sánh với kết quả khảo sát ở lớp đối chứng, kết quả cụ thể như sau:

Mặc dù đầu năm học, hai lớp 5A và 5B có kết quả khảo sát tương đương nhau nhưng đến cuối học kì I thì số liệu nêu trên lại cho thấy : lớp 5A đạt điểm kiểm tra 5- 6 ít hơn lớp 5B, số lượng học sinh đạt điểm 9, 10 nhiều hơn nhiều so với lớp đối chứng. Điều đó chứng tỏ học sinh lớp tôi có khả năng tư duy phân tích bài toán chắc chắn hơn và trình bày bài giải cũng chính xác hơn. Ngoài ra, so sánh với lớp đối chứng, tôi thấy: kĩ năng vận dụng kiến thức, trình bày bài giải của học sinh lớp tôi sau mỗi đợt kiểm tra định kì tại trường đều có sự tiến bộ rõ rệt và tốt hơn học sinh lớp đối chứng. Đặc biệt các em học sinh tiếp thu nhanh khi gặp những bài toán dạng vận dụng tổng hợp đã phân tích rất linh hoạt, lí giải chặt chẽ, rõ ràng, có cơ sở. Kết quả này, không phải chỉ có giáo viên chủ nhiệm tôi trực tiếp nhận thấy mà đã được các thầy, cô giáo trong hội đồng sư phạm nhà trường đánh giá, khẳng định. Điều đó chứng tỏ sáng kiến: ” nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5″ của tôi đã có hiệu quả rõ rệt và có tính khả thi.

Mặt khác, tính khả thi của sáng kiến này còn được thể hiện rất rõ qua kết quả học tập của học sinh cả khối lớp 5 trong học kì 1 vừa qua. Từ việc áp dụng những kinh nghiệm nêu trên cho lớp mình chủ nhiệm, tôi đã xây dựng chuyên đề và được chuyên môn nhà trường cho phép triển khai cho tất cả giáo viên Tổ 4+ 5 trong hội đồng sư phạm của nhà trường. Qua kết quả áp dụng sáng kiến tôi báo cáo vào giảng dạy, nhiều giáo viên trong tổ chuyên môn 4+5 nói riêng, giáo viên trong toàn hội đồng sư phạm trường tôi nói chung kể cả Ban giám hiệu nhà trường đều công nhận có hiệu quả cao và rất thiết thực.

6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng:

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

– Giáo viên tích cực tham gia học tập trao đổi kinh nghiệm cùng bạn bè, đồng nghiệp, nhiệt huyết, yêu nghề, đam mê công việc.

– Nhà trường tạo điều kiện để giáo viên có nhiều sách tham khảo, nâng cao; tổ chức các chuyên đề ở tổ chuyên môn để các giáo viên có điều kiện tham khảo học hỏi lẫn nhau.

– Phụ huynh học sinh quan tâm tới việc ôn tập của con em mình và có thể dùng chính tư liệu là sáng kiến để kết hợp phụ đạo cho con em mình.

Qua kết quả thực nghiệm và thực tế giảng dạy dạng toán có lời văn cho học sinh, tôi thấy để tiết dạy có kết quả tốt cần thực hiện tốt các giải pháp:

– Giáo viên phải tìm và thống kê các sai lầm của học sinh thường mắc phải khi học về giải toán có lời văn.

– Áp dụng các phương pháp dạy khoa học, phù hợp với những sai lầm mà học sinh thường mắc phải khi học phần toán có lời văn. Củng cố khái niệm, qui tắc: so sánh, cộng, trừ, nhân, chia. Tăng cường luyện tập tạo thành kĩ năng trong giải toán cho học sinh, nhất là những học sinh yếu kém môn toán.

– Phải giúp học sinh nắm vững các bước giải của dạng toán này.

– Giúp học sinh tìm hiểu kĩ đề bài: đọc đề kĩ càng, hiểu được các từ ngữ quan trọng trong đề, xác định dạng toán, lập luận để tìm ra dữ kiện bị ẩn, vẽ sơ đồ,…

2. Khuyến nghị : 2.1.Đối với các cấp lãnh đạo:

– Những bài tập ra cho HS giải phải có hệ thống, tức là những bài tập đó được nâng cao mở rộng dần từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ quen đến lạ,… Bài tập sau phải dựa trên cơ sở của bài tập trước. Có như thế HS mới phát huy được tính sáng tạo, bồi dưỡng được năng lực tư duy cho HS.

– Đối với những bài tập làm “mẫu”, giáo viên không nên trình bày ngay mà nên để HS suy nghĩ một lúc sau đó mới gợi ý dần bằng một số câu hỏi hay bằng sơ đồ,… Giáo viên không nên hướng dẫn quá tỉ mỉ hoặc làm thay học sinh. Sau bài tập mẫu, giáo viên ra thêm một số bài tập có kiểu tương tự cho HS tự giải .

2.2.Đối với nhà trường:

Với sáng kiến tôi đưa ra đã phần nào góp phần khắc phục được một số lỗi cho học sinh. Mặc dù kết quả của sáng kiến này còn hạn chế nhưng cũng đã mang lại rất nhiều khả quan trong quá trình thực hiện, đã khắc phục, hạn chế nhiều sai lầm của học sinh khi học phần giải toán có lời văn. Do đó, sáng kiến này có thể áp dụng đối với giáo viên và học sinh trong các tiết toán có lời văn ở lớp cả lớp 4 và lớp5 của trường .

– Tổ chức các cuộc hội thảo để giải đáp những vướng mắc của giáo viên, có những tư vấn và hướng dẫn phương pháp và cách làm có hiệu quả cho giáo viên.

– Cần mở các chuyên đề về dạy học giải toán có lời văn. Cử GV có trình độ chuyên môn tốt giúp đỡ đồng nghiệp về các phương pháp giải toán.

– Cần nghiên cứu và áp dụng có hiệu quả các sáng kiến và bài học kinh nghiệm được đúc rút trong quá trình giảng dạy.

-Trong giảng dạy giáo viên phải luôn quan sát, chú ý phải ghi lại những điểm thành công trong bài dạy cũng như những mặt chưa đạt được trong tiết dạy ngay sau tiết học để rút kinh nghiệm bổ sung.

– Phải thường xuyên học hỏi để có nhiều kinh nghiệm, sáng tạo trong bài dạy, cách truyền thụ kiến thức nhằm tạo cho học sinh hứng thú học tập.

– Phải nắm được trình độ học sinh, để lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức cho phù hợp tạo ra không khí lớp học nhẹ nhàng, vui vẻ, sôi nổi.

– Giáo viên mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy bằng nhiều hình thức cho phù hợp với đặc điểm tình hình lớp mình để đạt hiệu quả cao nhất.

– Quan tâm đến mọi đối tượng học sinh trong lớp .

– Lập kế hoạch bài học sát với thực trạng dạy và học của lớp mình. Đề ra những biện pháp dạy học thích hợp, nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng học tập của học sinh.

– Trong dạy học cần phối hợp nhiều phương pháp nhằm giúp các em học tập tốt hơn.

– Để bồi dưỡng học sinh năng khiếu toán, giáo viên cần phải: Bồi dưỡng theo từng mạch kiến thức, đi từ kiến thức cơ bản đến khai thác nâng cao dần.

– Khi các em đã nắm chắc những kiến thức cơ bản, giáo viên phải ra đề phong phú hơn, nâng cao dần và khái quát hóa bài toán.

– Phải chú ý khai thác và phát triển các đề toán khác nhau trên cơ sở một bài toán cơ bản đã có, tạo cơ hội phát triển tư duy ở các em.

PHỤ LỤC ĐỀ KHẢO SÁT CUỐI HỌC KÌ 1- NĂM HỌC 2023 -2023

– Phải kiên trì, khi học sinh chưa hiểu hoặc chưa nắm vững kiến thức, giáo viên cần phải có hệ thống câu hỏi gợi mở nhằm giúp các em ôn tập nắm chắc kiến thức đã học.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Đề bài :

Môn : Toán

Lớp : 5

Thời gian: 30 phút.

Bài 1 : ( 4 điểm )

Một khu vườn hình chữ nhật có chu vi là 500m, chiều rộng bằng chiều dài. Tính diện tích khu vườn.

Bài 2 : ( 3 điểm )

GIÁO ÁN MINH HỌA GIÁO ÁN 1: Toán( tăng) ÔN TẬP GIẢI TOÁN VỀ TỈ SỐ PHẦN TRĂM ( Tuần 17)

An đọc một quyển truyện dày 64 trang, biết 5 lần số trang đã đọc bằng 3 lần số trang chưa đọc. Hỏi An đã đọc được bao nhiêu trang? Còn bao nhiêu trang chưa đọc?

Bài 3 : ( 3 điểm )

Trong thúng có 115 quả quýt và cam. Mẹ đã bán 45 quả quýt. Lúc này, trong thúng có số quýt còn lại bằng số cam. Hỏi lúc đầu có bao nhiêu quả cam và bao nhiêu quả quýt mỗi loại ?

– Tính tỉ số phần trăm của hai số.

– Tính một số phần trăm của một số.

– Tính một số khi biết một số phần trăm của nó.

– Giáo dục HS tính cẩn thận.

II. ĐỒ DÙNG DẠY25 Bảng phụ chép bài tập.

1. Kiểm tra bài cũ: 2 HS lên bảng:

Nêu 3 dạng toán cơ bản về tỉ số phần trăm?

– GV chốt:

+ Tìm tỉ số phần trăm của hai số 26,854 và 58

+ Tìm 20% của 40.

GV chữa bài, chốt cách giải 2 dạng toán về tỉ số phần trăm

2. Bài mới:

GV hướng dẫn HS làm và chữa một số bài toán sau:

Bài 1 : Một lớp học có 32 học sinh, trong đó có 24 học sinh nữ. Hỏi số học sinh nữ chiếm bao nhiêu phần trăm số học sinh của lớp học đó?

– Hs đọc yêu cầu bài

-Bài toán cho biết gì? Hỏi gì?

– Muốn viết số hs nữ chiếm chiếm bao nhiêu phần trăm số hs cả lớp chúng ta phải làm như thế nào?

-Bài toán thuộc dạng toán nào về tỉ số phần trăm?

-GV chữa bài chốt cách giải của dạng toán

Bài 2 : Một xưởng may đã dùng 120 m vải để may quần áo, trong đó số vải may quần chiếm 35 %. Hỏi số vải may áo là bao nhiêu mét?

-Bài toán cho biết gì? Hỏi gì?

-Muốn biết số vải may áo là bao nhiêu mét ta cần biết gì?

-Bài toán thuộc dạng toán nào về tỉ số phần trăm?

-Ngoài cách làm trên ta còn cách làm nào khác?

GV tổ chức cho hs làm theo 2 cách -GV chữa bài và chốt 2 cách làm của dạng toán.

Bài 3: Một trường tiểu học có 609 học sinh là đội viên TNTP Hồ Chí Minh, chiếm 84% số HS toàn trường. Hỏi trường đó có tất cả bao nhiêu học sinh?

– Hs đọc yêu cầu bài

-Bài toán cho biết gì? Hỏi gì?

-Muốn biết trường đó có tất cả bao nhiêu hs làm ntn? -Bài toán thuộc dạng toán nào về tỉ số phần trăm?

– GV chốt lại cách tính một số biết một số phần trăm của nó.

-GV chấm, chữa bài, nhận xét đánh giá hs

Bài 4 *: Một cửa hàng thực phẩm bán thịt và cá được 7 800 000 đồng. Nếu tiền bán được tăng thêm 400 000 đồng thì tiền lãi sẽ là 1 700 000 đồng. Hỏi tiền lãi thật sự bằng bao nhiêu phần trăm tiền vốn?

– Muốn biết tiền lãi thật sự bằng bao nhiêu phần trăm tiền vốn ta cần biết gì?

– Nêu cách tìm tiền lãi thật sự? Tìm tiền vốn?

– Gv chốt lại

-Bài toán thuộc dạng toán nào về tỉ số phần trăm?

-GV chấm bài, nhận xét đánh giá bài làm hs

-Gv chữa bài trên bảng chốt cách làm của dạng toán.

3.Củng cố, dặn dò:

– Nêu cách giải 3 dạng toán cơ bản về tỉ số %? Cách giải từng dạng toán?

GV chốt lại cách giải 3 dạng toán.

Hs nêu, lớp nhận xét bổ sung

– 2 hs lên bảng, lớp làm nháp

-Nhận xét bảng.

– HS đọc y/c

-Hs nêu

-Tính tỉ số phần trăm giữa hs nữ và số hs cả lớp.

-Tính tỉ số phần trăm của 2 số.

-1 hs lên bảng làm, lớp làm nháp

Tỉ số phần trăm của số hs nữ và số hs cả lớp là:

24 :32 = 0,75

0,75 = 75%

Đáp số: 75%

– HS đọc đầu bài

– HS phân tích bài

-Tìm số mét vải may quần.

– Lấy số vải trong xưởng có trừ đi số vải may quần.

– Tính một số phần trăm của một số.

-Tìm số % vải may

– Tìm số vải may áo

-2 hs lên làm theo 2 cách.

Cách 1:Số mét vải may quần là:

120 : 100 x 35 = 42( m)

Số mét vải may áo là:

120 – 42 = 78(m)

&

Nguyễn Thắng Lợi @ 22:53 25/02/2023 Số lượt xem: 257

Nâng Cao Chất Lượng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 3

Trong chương trình môn Toán ở tiểu học, giải toán có lời văn giữ một vai trò quan trọng. Thông qua việc giải toán các em thấy được nhiều khái niệm toán học. Như các số, các phép tính, các đại lượng, các yếu tố hình học.đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các sự kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua việc giải toán đã rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính của con người mới. Có thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo, giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp học sinh phát huy những mặt đạt được và khắc phục những mặt thiếu sót.

Chính vì vậy việc đổi mới phương pháp dạy toán có lời văn ở cấp tiểu học là một việc rất cần thiết mà mỗi giáo viên tiểu học cần phải nâng cao chất lượng học toán cho học sinh.

tố phải tìm . Cách 1: Thửa 1 : 127 kg cà chua. Thửa 2 : Gấp 3 lần thửa 1 ? kg cà chua Cách 2 : Thửa 1 : Thửa 2 : ? kg cà chua + Cho học sinh diễn đạt bài toán thông qua tóm tắt (không nhìn đề toán mà nhìn vào tóm tắt, học sinh tự nêu bài toán theo sự hiểu biết và ngôn ngữ của từng em). + Lập kế hoạch giải toán – Xác định bài toán theo cách thông thường: + Tìm số cà chua ở hai thửa ruộng, cần biết những yếu gì? (Biết số cà chua ở từng thửa ruộng là bao nhiêu kilôgam?). + Số kilôgam cà chua ở từng thửa ruộng đã biết chưa? (Biết số kilô gam cà chua ở thửa thứ 1 là 127 kg, còn số kilôgam cà chua ở thửa ruộng thứ 2 chưa biết). + Vậy phải tìm số kilôgam cà chua ở thửa thứ 2. – Tình tự giải: + Trước hết tìm số kilôgam cà chua ở thửa ruộng thứ hai. + Sau đó tìm tìm số cà chua ở hai thửa ruộng. + Xác lập mối quan hệ giữa các yếu tố và tìm đúng phép tính thích hợp: Tìm số cà chua ở thửa ruộng thứ 2 ? + Biết số cà chua ở thửa thứ 1 là 127 kg . + Biết số cà chua ở thửa thứ 2 nhiều gấp 3 lần số cà chua ở thửa thứ 1. + Vậy số kilôgam cà chua ở thửa thứ 2 bằng số kilôgam cà chua ở thửa thứ 1 nhân với 3. Tìm số cà chua ở hai thửa ruộng ? Biết số cà chua ở thửa 1 : 127kg Biết số cà chua ở thửa thứ 2 : (127x 3) kg Vậy số cà chua ở hai thửa ruộng bằng tổng số kilôgam cà chua ở hai thửa ruộng. Thực hiện cách giải và trình bày: Giáo viên cho học sinh thực hiện các phép tính trước ở ngoài nháp sau đó trình bày bài giải hoặc viết câu lời giải và phép tính tương ứng, thực hiện phép tính, viết kết quả. Số kilôgam cà chua thu hoạch ở thửa ruộng thứ hai là : 127 x 3 = 381 (kg) Số kilôgam cà chua thu hoạch ở hai thửa ruộng là : 127 + 381 = 508 (kg) Đáp số: 508 kg . Kiểm tra bài giải: Kiểm tra tóm tắt, câu lời giải, phép tính, bằng cách đọc lại, làm lại phép tính – Tổ chức rèn kĩ năng giải toán + Sau khi học sinh đã biết cách giải toán (có kĩ năng giải toán), để định hình kĩ năng ấy, giáo viên rèn kĩ năng giải toán cho học sinh. Rèn kĩ năng giải toán, nghĩa là cho học sinh vận dụng kĩ năng vào giải các bài toán khác nhau về hình thức. Giáo viên có thể rèn kĩ năng từng bước hoặc tất cả các bước giải toán. Ví dụ : Rèn kĩ năng tìm hiểu nội dung bài toán bằng các thao tác: + Đọc bài toán (đọc to, đọc nhỏ, đọc thầm, đọc bằng mắt). + Tìm hiểu một số từ, thuật ngữ quan trọng để tìm hiểu nội dung của các bài toán cụ thể ở sách giáo khoa. Tóm lại để giải bài toán có lời văn học sinh cần nắm các yếu tố sau. Tìm hiểu bài toán: Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì? (Tức là bài toán đòi hỏi phải tìm gì?) Giải bài toán: – Thực hiện phép tính để tìm điều chưa biết nêu trong câu hỏi – Trình bày bài giải: + Nêu câu lời giải + Phép tính để giải bài toán + Đáp số 2. Khả năng áp dụng: 2.1. Thời gian áp dụng hoặc thử nghiệm có hiệu quả: Sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã vận dụng vào việc dạy học toán có lời văn cho học sinh lớp 3 do mình phụ trách từ tháng 9/ 2012 đến nay. Qua một thời gian áp dụng sáng kiến trên học sinh lớp 3A của tôi đã có tiến bộ rõ rệt trong giải toán có lời văn nói riêng và trong môn toán nói chung. Các em không còn ngại khi gặp bài toán có lời văn nữa mà còn ham thích giải toán có lời văn cũng như biết tìm ra được nhiều cách giải khác nhau trong một bài toán có lời văn, học sinh nắm vững cấu trúc và phương pháp của từng dạng toán đã học, biết trình bày lời giải một cách chính xác, ngắn gọn. 2.2. Có khả năng thay thế giải pháp hiện có: Những giải pháp trên có thể vận dụng trong các tiết học toán, đặc biệt là dạy các bài toán có lời văn, giúp học sinh nắm chắc cách giải, tạo sự hứng thú, yêu thích học toán, nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tập. 2.3 Khả năng áp dụng ở đơn vị hoặc trong ngành: – Kết quả nắm bắt kiến thức của học sinh được nâng lên rõ rệt. – Những giải pháp trên phát huy được tính tích cực, chủ động tìm hiểu kiến thức của học sinh, các em có hứng thú thi đua học tập. – Đề tài được áp dụng rộng rãi cho tất cả các đối tượng học sinh trong lớp, đặc biệt là các em học sinh yếu, học sinh chưa bền vững về kiến thức. Sau khi thực hiện và áp dụng các giải pháp trên, kết quả đạt được là học sinh đã thích học môn toán nói chung và các bài toán có lời văn nói riêng. Đặc biệt các em thực hiện giải các bài toán có lời văn một cách dễ dàng, không còn lo sợ khi gặp dạng toán này nữa. 3. Lợi ích kinh tế – xã hội: Qua quá trình áp dụng giải pháp, bản thân tôi nhận thấy nhiều học sinh làm thành thạo dạng toán này, chất lượng giải toán có lời văn từng bước được cải thiện và nâng cao, góp phần kích thích ý thức học tập của học sinh. í Qua ba năm tiến hành thực nghiệm trên đối tượng là học sinh lớp 3A trường Tiểu học số 2 Hoài Hảo, kết quả như sau: Năm học Sĩ số 2012-2013 Dạy học thông thường 2013-2014 Dạy học theo SKKN 2014-2023 Dạy học theo SKKN 2023-2023 Dạy học theo SKKN C.KẾT LUẬN 1. Những điều kiện kinh nghiệm áp dụng, sử dụng giải pháp. – Đi từ bài dễ đến bài khó để các em dễ nắm bắt kiến thức hơn. – Chia loại toán có lời văn này thành các dạng toán nhỏ. – Giáo viên hướng dẫn cho học sinh nắm được phương pháp giải từng dạng của bài toán có lời văn. – Tìm các bài toán điển hình cho dạng đó để hướng dẫn các em tìm ra phương pháp giải chung. – Giáo viên giúp cho học sinh lập được kế hoạch giải các bài toán cụ thể. – Tuỳ theo tình hình thực tế của lớp, giáo viên có thể thông qua việc dạy học toán để khắc sâu kiến thức. 2. Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp. Việc đổi mới phương pháp giảng dạy, lấy học sinh làm trung tâm cần thiết, theo hướng đổi mới hiện đại hoá hiện. Học sinh chủ động trong các hoạt động, giáo viên chỉ hướng dẫn giúp đỡ các em. Đối với học sinh yếu giáo viên cần ân cần giúp đỡ, nhắc nhở, khen ngợi kịp thời. Khi giảng dạy luôn theo hướng đổi mới lấy học sinh làm trung tâm, học sinh học theo hướng tích cực. Với việc thực hiện chương trình như hiện nay thì kinh nghiệm này có thể vận dụng rộng rãi ở tất cả các lớp và các đối tượng học sinh. 3. Đề xuất kiến nghị. Qua quá trình nghiên cứu và tổ chức thực hiện sáng kiến, để dạy giải toán có lời văn ở lớp 3 nói riêng và giải toán có lời văn trong chương trình toán Tiểu học nói chung đạt kết quả cao bản thân tôi có một số kiến nghị và đề xuất như sau: 3.1.Đối với Giáo viên: Để việc dạy học có kết quả, cần đảm bảo tính khoa học, chính xác và tính sư phạm, đòi hỏi mỗi giáo viên không ngừng tự học, tự bồi dưỡng, tìm hiểu, nghiên cứu về nội dung, phương pháp dạy học toán, tự hoàn thiện và nâng cao những tri thức cần thiết, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, biết phát huy năng lực tiếp thu của học sinh và động viên tinh thần học tập của các em kịp thời đúng lúc, chuẩn bị đồ dùng dạy học phù hợp nội dung bài học. Tránh tạo mặc cảm yếu kém ở các em mà bằng mọi cách phải tạo được niềm tin ở khả năng mình. Ngoài ra người giáo viên phải thật sự thương yêu và gần gũi các em, luôn tìm phương pháp giảng dạy hết sức cụ thể, ngắn gọn để các em dễ nắm, dễ nhớ, dễ làm. Chú trọng rèn kỹ năng đọc viết và kỹ thuật tính cho các em càng nhiều càng tốt. Người giáo viên cần phải nắm vững nội dung chương trình, bản chất của bài toán, dạng toán, mối tương quan giữa các dữ kiện của bài toán. Huy động được những kiến thức vốn có của học sinh để tự các em chiếm lĩnh được nội dung kiến thức của bài học một cách độc lập, phát huy vai trò hoạt động cá nhân của học sinh trong quá trình giải toán. Tổ chức học sinh luyện tập theo từng mức độ dễ, khó khác nhau nâng dần khả năng phát triển của các bài toán, rèn phương pháp suy nghĩ độc lập, tự chủ, tư duy sáng tạo. Đưa ra những bài toán có nội dung giải quyết các vấn đề gắn liền với thực tiễn để gây hứng thú cho học sinh trong quá trình giải toán. Khi sử dụng sáng kiến kinh nghiệm đặt yêu cầu cao đối với công tác dạy học, chất lượng được nâng lên rõ rệt và hạn chế rất nhiều số lượng học sinh yếu ở nội dung này, chất lượng giải toán có lời văn đạt hiệu quả rõ rệt. 3.2. Đối với học sinh: Cần chuẩn bị đầy đủ sách giáo khoa và các dồ dùng học tập. Vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Nếu như sáng kiến kinh nghiệm trên được phổ biến và được thực hiện ở các khối lớp thì chất lượng bộ môn còn được cải thiện nhiều hơn và như vậy sáng kiến kinh nghiệm có hiệu quả thực tế cao hơn. ² Người giáo viên phải kiên trì vượt qua những khó khăn “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Luôn tham gia học hỏi trau dồi kinh nghiệm. “Thầy dạy tốt trò học tốt”. Do đó người giáo viên cần nắm vững phương pháp giảng dạy. Chuẩn bị tốt cho tiết dạy và áp dụng một cách nhuần nhuyễn linh hoạt. Giáo viên phải luôn quan tâm giúp đỡ học sinh yếu, uốn nắn sửa sai kịp thời động viên khích lệ học sinh “Vừa học vừa chơi, vừa chơi vừa học”. Bên cạnh cần có sự thống nhất trong tổ chuyên môn, tích cực tham gia chuyên đề do tổ, trường tổ chức nhằm góp phần nâng cao chất lượng. Hoài Hảo, ngày 15 tháng 10 năm 2023 Người viết Lê Thị Thùy Trang

Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nâng Cao Chất Lượng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 5

Hình học-chu vi, diện tích, thể tích của một hình. 9. Số đo thời gian-Toán chuyển động đều. 2/ Cơ sở thực tiễn: Đề bài của bài toán có lời văn bao giờ cũng có hai phần: Phần đã cho hay còn gọi là giả thiết của bài toán. Phần phải tìm hay còn gọi là kết luận của bài toán. - Ngoài ra trong đề toán có nêu mối quan hệ giữa phần đã cho và phần phải tìm hay thực chất là các mối quan hệ tương quan phụ thuộc vào giả thiết và kết luận của bài toán. Quy trình giải toán có lời văn thường thông qua các bước sau: -Nghiên cứu kĩ đàu bài: Trước hết cần đọc cẩn thận bài toán, suy nghĩ về ý nghĩa của bài toán, nội dung bài toán, đặc biệt là chú ý đến câu hỏi của bài toán. Chớ vội tính toán khi chưa đọc kĩ đề toán. -Thiết lập mối quan hệ giữa các số đã cho và diễn đat nội dung bài toán bàng ngôn ngữ hoặc tóm tắt điều kiện bài toán, hoặc minh hoạ bằng sơ đồ hình vẽ. -Lập kế hoạch giải toán: Học sinh phải suy nghĩ xem để trả lời câu hỏi của bài toán cần thực hiện phép tính gì? Suy nghĩ xem từ số đã cho và điều kiện của bài toán có thể biết gì? Có thể làm phép tính gì? Phép tính đó có thể giúp trả lời câu hỏi của bài toán không? Trên các cơ sở đó, suy nghĩ để thiết lập trình tự giải toán. -Thực hiện phép tính theo trình tự kế hoạch đã thiết lập để tìm đáp số. Mỗi khi thực hiện phép tính càn kiểm tra xem đã tính đúng chưa? Phép tính được thực hiện có dựa trên cơ sở đúng đắn không? Giải xong bài toán, khi cần thiết, cần thử lại xem đáp số tìm được có trả lời đúng câu hỏi của bài toán, có phù hợp với các đièu kiện của bài toán không? Trong một số trường hợp, giáo viên nên khuyến khích học sinh tìm xem có cách giải khác gọn hơn không? Ví dụ 1: Thùng to có 26 lít dầu, thùng bé có 18 lít dầu. Dầu được chứa vào các chai như nhau, mỗi chai có 0,8 lít. Hỏi có tất cả bao nhiêu chai dầu? Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện bài toán trên bằng cách dùng phương pháp vấn đáp, kết hợp với minh hoạ bằng tóm tắt đề toán. +Phân tích nội dung đề toán: Giáo viên dùng hai câu hỏi: Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì? Để học sinh hiểu nội dung bài: Thùng to có 26 lít dầu. Thùng bé có 18 lít dầu. Mỗi chai chứa 0,8 lít dầu. Hỏi có tất cả có bao nhiêu chai dầu? +Tóm tắt bài toán : Theo những câu trả lời của học sinh, giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt như sau: Thùng to: 26 l Thùng bé:18 l Có :...... chai dầu? Tóm tắt trên chính là chỗ dựa cho học sinh tự tìm ra lời và phép tính tương ứng. +Thiết lập trình tự giải: Giáo viên đạt câu hỏi "Muốn biết có bao nhiêu chai dầu, ta phải làm thế nào? " Học sinh trả lời: "Trước hết ta phải tìm tổng số lít dầu có ở hai thùng, sau đó mới tìm tổng số chai đựng dầu". Bài giải Tổng số lít dầu ở hai thùng là: 26 + 18 =44 (l) Số chai đựng dầu là: 44 : 0,8 = 55 (chai ) Đáp số: 55 chai II. CÁC PHƯƠNG PHÁP DÙNG ĐỂ GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN 1/ Phương pháp trực quan: Nhận thức của trẻ từ 6 đến 11 tuổi còn mang tính cụ thể, gắn với các hình ảnh và hiện tượng cụ thể, trong khi đó kiến thức của môn toán lại có tính trừu tượng và khái quát cao. Sử dụng phương pháp này giúp học sinh có chỗ dựa cho hoạt động tư duy, bổ sung vốn hiểu biết, phát triển tư duy trừu tượng và vốn hiểu biết. Đối với học sinh lớp 5, việc sử dụng đồ dùng trực quan ít hơn các lớp trước và bớt dần đi việc đồ vật thật. Ví dụ: Khi dạy giải toán ở lớp 5, giáo viên có thể cho học sinh quan sát mô hình hoặc hình vẽ, sau đó lập tóm tắt đề bài rồi mới đến bước chọn phép tính. 2/Phương pháp gợi mở-vấn đáp: Đây là phương pháp cần thiết và thích hợp với học sinh ở tiểu học, rèn luyện cho học cách suy nghĩ, cách diễn đạt bằng lời, tạo niềm tin và khả năng học tập của từng học sinh. Để sử dụng tốt phương pháp này, giáo viên cần lựa chon hệ thống câu hỏi chính xác và rõ ràng, nhờ thế mà học sinh có thể nắm được ngay nội dung kiến thức từ đầu và giúp các em dễ dàng trả lời các câu hỏi. 3/ Phương pháp thực hành và luyện tập: Sử dụng phương pháp này thực hành luyện tập kiến thức, kĩ năng giải toán từ đơn giản đến phức tạp (chủ yếu ở các tiết luyện tập). Trong quá trình học sinh luyện tập, giáo viên có thể phối hợp các phương pháp như: Gợi mở, vấn đáp và giảng giải minh hoạ. 4/ Phương pháp sơ đồ đoạn thẳng: Giáo viên sử dụng sơ đồ đoạn thẳng để biểu diễn các đại lượng đã cho trong bài và mối liên hệ phụ thuộc giữa các đại lượng đó. Giáo viên phải chọn độ dài đoạn thẳng một cách thích hợp để học sinh dẽ dàng quan sát và thấy được mối liên hệ phụ giữa các đại lượng tạo ra hình ảnh cụ thể để giúp học sinh suy nghĩ, tìm tòi giải toán. 5/ Phương pháp giảng giải-minh hoạ: Khi cần giảng giải- minh hoạ, giáo viên cần nói gọn, rõ và kết hợp với gợi mở-vấn đáp. Giáo viên nên phối hợp giảng giải với hoạt động thực hành của học sinh (Ví dụ: Bằng hình vẽ, mô hình, vật thật...). Để học sinh phối hợp nghe, nhìn và làm, nên hạn chế sử dụng phương pháp này vì sẽ làm hạn chế khả năng tư duy lôgic và suy nghĩ sáng tạo của học sinh. III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢI CÁC BÀI TOÁN CÓ LỜI VĂN Ở LỚP 5 Muốn phân tích được tình huống, lựa chọn phép tính thích hợp, các em cần nhận thức được: Cái gì đã cho, cái gì cần tìm, mối quan hệ với cái đã cho và cái phải tìm. Trong bước đầu giải toán việc nhận thức và việc lựa chọn phép tinh với các em là một việc khó. Để giúp các em khắc phục khó khăn này, cần dựa vào hoạt động cụ thể của các em với vật thật, với mô hình, dựa vào hình vẽ, các sơ đồ toán học...Nhằm làm cho các em hiểu khái niệm "gấp" với phép nhân, khái niệm "một phần..." với phép chia trong tương quan giũa các mối quan hệ với bài toán. Trong một bài toán, câu hỏi có một chức năng quan trọng vì việc lựa chọn phép tính thích hợp được quy định không chỉ bởi các dữ kiện mà còn bởi các câu hỏi. Với cùng các dữ kiện như nhau có thể dặt các câu hỏi khác nhau, do đó việc lựa chọn phép tính cũng khác nhau. Việc thấu hiểu câu hỏi của bài toán là điều kiện căn bản để giải đúng các bài toán đó. Những trẻ em trong giai đoạn đầu khi mới giải toán chưa nhận thức được đầy đủ chức năng của câu hỏi trong bài toán. Để rèn luyện cho các em suy luận đúng, cần giúp các em nhận thức được chức năng quan trọng của câu hỏi trong bài toán. Câu hỏi của bài toán, đôi khi nêu cho các em bài toán vui không giải được. Chẳng hạn: "Trên cành cây có 10 con chim. Người thợ săn bắn rơi 2 con chim. Hỏi trong lồng còn mấy con chim?". Có em sẽ nhầm và trả lời là 8 con chim. Lúc đó giáo viên sẽ giải thích để học sinh nhận ra cái sai trong câu hỏi của bài toán. Đối với bài toán có lời văn ở lớp 5, chủ yếu là các bài toán hợp.Giải các bài toán hợp cũng có nghĩa là giải quyết các bài toán đơn. Mặt khác các dạng toán đều đã được học ở các lớp trước bao gồm hai nhóm chính như sau: Nhóm 1: Các bài toán hợp mà quá trình giải không theo một phương pháp thống nhất cho các bài toán đó. Nhóm 2: Các bài toán điển hình là các bài toán mà trong quá trình giải có phương pháp riêng cho từng dạng bài toán. Trong chương trình toán lớp 5 có những dạng toán điển hình sau: -Tìm số trung bình cộng. -Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đo. -Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó. -Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ của hai số đó. Người giáo viên phải nắm vững các dạng toán để có cách giải phù hợp. Giải toán là một hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp. hình thành kĩ năng giải toán khó hơn nhiều so với hình thành kĩ năng tính. Vì bài toán là sự kết hợp đa dạng nhiều khái niệm, quan hệ toán học. Giải toán không chỉ là nhớ mẫu để rồi áp dụng, mà đòi hỏi phải nắm chắc khái niệm, quan hệ toán học, nắm ý nghĩa của phép tính, đòi hỏi khả năng suy nghĩ độc lập của học sinh, đòi hỏi phải biết tính đúng. Các bước để giải một bài toán có lời văn ở tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng đã được đề cập ở một số cách về phương pháp giải toán ở bậc tiểu học. Ở đây tôi rút ra một số kinh nghiệm hướng dẫn: Phần đạt toán có lời văn ở lớp 5. Ở lớp 5, việc học phân số, học số thập phân, học về các đơn vị đo đại lượng...Cũng được kết hợp học các phép tính, học giải toán được kết hợp một cách hữu cơ để có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau. Việc dạy cho học sinh nắm được các phương pháp chung để giải toán được chú trọng ngay từ khi các em giải bài toán đầu tiên ở bậc tiểu học và sau này vẫn được thường xuyên quan tâm. Các em luôn được rèn luyện trong việc tìm hiểu đề toán, trong viẹc phân tích cái gì đã cho, cái gì phải tìm trong việc suy nghĩ tìm ra cách giải và trong việc thực hiện cách giải. Đặc biệt các em thường xuyên sử dụng việc tóm tắt bài toán bằng sơ đồ hình vẽ. Ví dụ 1: Bài toán về đại lượng tỉ lệ thuận. Một ô tô cứ một 100 km thì hết 12,5 l xăng. Hỏi ô tô đi quãng đường dài 120 km thì cần bao nhiêu lít xăng? Bài giải Số lít xăng cần để đi 1 km là: 12,5 : 100 = 0,125 (l) Số lít ô tô cần để đi quãng đường 60 km là: 0,125 x 120 = 15 (l) Đáp số : 15 lít xăng Ví dụ 2: Toán chuyển động đều. Một người đi hết quãng đường dài 11,52 km với vận tốc 4,5 km/giờ. Hỏi người đó đã đi hết bao nhiêu giờ và bao nhiêu phút? Bài giải Thời gian ô tô đi hết quãng đường là: 11,52 : 4,5 = 2,5 (giờ) = 2 giờ 30 phút. Đáp số: 2 giờ 30 phút. Ví dụ 3: Bài toán về tỉ lệ nghịch. Một đơn vị bộ đội có 45 người đã chuẩn gạo đủ ăn trong 15 ngày. Nhưng sau 5 ngày đơn vị đó nhận tiếp thêm 5 người nữa. Hãy tính xem số gạo còn lại đủ cho đơn vị ăn bao nhiêu ngày nữa, biết rằng các xuất ăn đều như nhau. Bài giải Số gạo còn lại đủ cho 45 người ăn trong số ngày là: 15 - 5 = 10 (ngày) Số người của đơn vị sau khi tăng là: 45 + 5 = 50 (người) Vì số gạo còn lại đủ cho 45 người ăn trong 10 ngày, nên nếu 1 người ăn số gạo đó thì sẽ đủ ăn trong số ngày là: 10 x 45 = 450 (ngày) Vậy 50 người ăn số gạo còn lại trong số ngày là: 450 : 50 = 9 (ngày) Đáp số: 9 ngày Ví dụ 4: Bài toán về nhân số thập phân với số thập phân. Một khu vườn hình chữ nhật có chiều dài 27,18 m, chiều rộng 9,4 m. Tính chu vi và diện tích khu vườn đó? Tóm tắt: Chiều dài: 27,18 m Chiều rộng: 9,4 m Chu vi: ? m; diện tích: ? m2 Bài giải Chu vi của khu vườn là: (27,18 + 9,4) x 2 = 72,96 (m) Diện tích khu vườn là: 27,18 x 9,4 = 255,492 (m2) Đáp số: Chu vi: 72,96 m Diện tích: 255,492 m2 Ví dụ 5: Bài toán về tỉ số phần trăm. Ngày thường mua 5 quả bóng bay hết 10.000 đồng . Cũng với số tền đó trong ngày lễ chỉ mua được 4 quả bóng bay như thế. Hỏi so với ngày thường thì giá bóng bay trong ngày lễ tăng hay giảm bao nhiêu phần trăm? Bài giải Giá tiền 1 quả bóng bay ngày thường là: 10000 : 5 = 2000 (đồng) Giá tiền 1 quả bóng bay trong ngày lễ là: 10000 : 4 = 2500 (đồng) Tỉ số phần trăm của giá bóng bay trong ngày lễ so với ngày thường là: 2500 : 2000 = 1,25 = 125% Coi giá bóng bay trong ngày thường là 100% thì giá bóng bay trong ngày lễ hơn ngày thường là: 125% - 100% = 25% Đáp số: 25% Đối với các bài toán có lời văn như trên, giáo viên nên khuyến khích học sinh tự nêu ra các giả thiết đã biết, cái cần phải tìm cách tóm tắt bài toán và tìm cách giải. Các phép tính giải chỉ là khâu thứ yếu mang tính kĩ thuật. Một số bài nâng cao dành cho học sinh khá giỏi: Đối với những đối tượng học sinh đã giải được và giải thành thạo các bài toán đơn cơ bản, thì việc đưa ra hệ thống bài tập nâng cao là rất quan trọng và cần thiết để cho học sinh có điều kiện phát huy năng lực trí tuệ của mình, vượt xa khỏi tư duy cụ thể mang tính chất ghi nhớ và áp dụng một cách máy móc trong công thức. Ví dụ 1: Nếu Kiên và Hiền cùng làm một công việc thì hoàn thành công việc trong 10 ngày. Sau 7 ngày cùng làm thì Kiên nghỉ việc , còn Hiền phải làm nốt phần việc còn lại trong 9 ngày nữa . Hãy tính xem nếu mỗi người làm riêng thì sau bao nhiêu ngày sẽ hoàn thành công việc đó? Bài giải Cách 1: Kiên và Hiền cùng làm trong 1 ngày được công việc. Kiên và Hiền cùng làm sau 7 ngày được: (công việc) Phần việc còn lại do Hiền làm là: (công việc) Mỗi ngày Hiền làm được là: (công việc) Số ngày Hiền làm một mình để xong công việc là: (ngày) Mỗi ngày Kiên làm được là: (công việc) Số ngày Kiên làm một mình hết công việc là: (ngày) Đáp số: Hiền: 30 ngày Kiên: 15 ngày Cách 2: Coi công việc là 10 phần bằng nhau thì Kiên và Hiền cùng làm được 7 phần , nên còn lại 3 phần đó (10-7=3) là do Hiền làm tiếp trong 9 ngày nữa. 3 phần làm trong 9 ngày. 1 phần làm trong: 9 : 3 = 3 (ngày) 10 phần làm trong: 3 x 10 = 30 (ngày) Vậy Hiền làm riêng thì sẽ xong công việc: Giả sử Hiền chỉ làm tiếp trong 3 ngày nữa thì mới thực hiện thêm 1 phần việc, còn 2 phần việc lẽ ra Kiên phải làm trong 3 ngày. Như thế Kiên phải làm nhanh gấp đôi Hiền. Vì vậy số ngày Kiên làm riêng để làm xong công việc là: 30 : 2 = 15 (ngày) Đáp số: Hiền: 30 ngày Kiên: 15 ngày Ví dụ 2: Có một số lít dầu và một số can. Nếu mỗi can chứa 5 l dầu thì còn thừa 5 l. Nếu mỗi can chứa 6 l dầu thì có 1 can không chứa dầu. Hỏi có bao nhiêu can, bao nhiêu lít dầu? Bài giải Nếu mỗi can chứa 5 l dầu thì còn thừa 5 l. Nếu mỗi can chứa 6 l dầu thì có một can không chứa dầu, Nghĩa là thêm 6 l dầu nữa thì không còn thừa một can nào nữa. Do đó số dầu để chứa đủ mỗi can 6 l sẽ nhiều hơn số dầu để chứa mỗi can 5 l là: 5 + 6 = 11 (l) 6 l dầu nhiều hơn 5 l dầu là: 6 - 5 = 1 (l) Số can có là: 11 : 1 = 11 (can) Có 11 can, mỗi can chứa 5 l còn thừa 5 thì số dầu có là: 5 x 11 + 5 = 60 (l) Đáp số: 11 can 60 l dầu Ví dụ 3: Lớp 5A tham gia học may, ngày thứ nhất có 1/6 số học sinh của lớp và 2 em, ngày thứ hai có 1/4 số học sinh còn lại và 1 em tham gia, ngày thứ ba có 2/5 số học sinh còn lại sau hai ngày và 3 em, ngày thứ tư có 1/3 số còn lại và 1 em tham gia. Cuối cùng còn lại 5 em chưa tham gia. Hỏi lớp 5A có bao nhiêu học sinh? Tóm tắt: ? em Số học sinh: Ngày 1: số HS và 1 em Ngày 2: số HS còn lại và 1 em Ngày 3: số HS còn lại và 3 em Ngày 4: số HS còn lại và 1 em 5 em Bài giải Số học sinh còn lại sau khi tham gia ngày thứ ba là: (5 + 1) : 2 x 3 = 9 (em) Số học sinh còn lại sau ngày thứ hai là: (9 + 3 ) : 3 x 5 = 20 (em) Số học sinh còn lại sau ngày thứ nhất là: (20 + 1) :3 x 4 = 28 (em) Số học sinh lớp 5A là: (28 +2 ) : 5 x 6 = 36 (em) Đáp số: 36 em * PHẦN THỨ BA KẾT QUẢ ÁP DỤNG NĂM HỌC 2012-2013 Qua một thời gian nghiên cứu đề ra một số biện pháp giải toán có lời văn ở lớp 5, tôi đã mạnh dạn tổ chức chuyên đề này về phương pháp, về cách tổ chức giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5A của tôi, trong năm học: 2012-2013. Kết quả đạt được cụ thể như sau: Thời gian kiểm tra Tổng số HS Kết quả Giỏi Khá TB SL % SL % SL % Giữa kì I 30 10 33,3 15 50,0 5 16,7 Cuối kì I 30 15 50,0 12 40,0 3 10,0 Giữa kì II 30 18 60,0 12 40.0 Cuối năm 30 20 66.7 10 33.3 Từ những kết quả thống kê nêu trên, tôi thấy dạy giải toán có lời văn ở lớp 5 không chỉ những giúp cho học sinh củng cố, vận dụng các kiến thức đã học, mà còn giúp cho các em phát triển năng lực tư duy, óc sáng tạo, tính kiên trì trong học toán và vận dụng thực hành vào thực tiễn trong cuộc sống. *PHẦN THỨ TƯ KẾT LUẬN-ĐỀ XUẤT I KẾT LUẬN Hướng dẫn và giúp học sinh giải toán có lời văn nhằm giúp các em phát triển tư duy trí tuệ, tư duy phân tích và tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa, rèn luyện tốt phương pháp suy luận lôgic. Bên cạnh đó, đây là là một dạng toán rất gần gũi với đời sống thực tế với học sinh. Do vậy, có thể nói đây là một nhiệm vụ của mỗi người giáo viên đứng lớp. Việc giảng dạy toán có lời văn một cách hiệu quả giúp các em trở thành những con người linh hoạt, sáng tạo, làm chủ trong mọi lĩnh vực và trong cuộc sống thực tế hằng ngày. Những kết quả mà chúng tôi đã thu được trong quá trình nghiên cứu không phải là cái mới so với kiến thức chung về môn toán ở bạc tiểu học song lại là cái mới đối với bản thân tôi. Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã phát hiện và rút ra nhiều điều lý thú về nội dung và phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở bậc tiểu học. Tôi tự cảm thấy mình được bồi dưỡng thêm lòng kiên trì , nhẫn nại, sự ham muốn, lòng say sưa với nghiên cứu tìm tòi trong công việc dạy học, nhằm đem lại sự tươi sáng cho học sinh và niềm đam mê cho chính bản thân. Tuy nhiên, đề tài này của tôi đang trong giai đoạn đầu nghiên cứu và áp dụng trong lĩnh vực khoa học nên không tránh khỏi những khiếm khuyết. Tôi mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo Hội đồng khoa học các cấp , các bạn đồng nghiệp và những ai quan quan tâm đến vấn đề: "Giải toán có lời văn" cho học sinh ở bậc tiểu học nói chung, và "Giải toán có lời văn" ở lớp 5 nói riêng. II MỘT SỐ ĐỀ XUẤT Qua thực tế giảng dạy môn toán ở trường tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng. Tôi thấy người giáo viên phải luôn luôn tìm tòi học hỏi, trau rồi kinh nghiệm để nâng cao trình độ nghiệp vụ. Từ kinh nghiệm thực tế trong những năm giảng dạy, để giúp học sinh thích học và giải toán có lời văn, tôi kiến nghị với các nhà soạn sách giáo khoa hãy lựa chọn, sắp xếp hệ thống các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp để các em có thể vận dụng tốt các kiến thức đã học. Đối với giáo viên ở mỗi dạng toán cần hướng dẫn học sinh nhận dạng bằng nhiều cách: đọc, nghiên cứu đề, phân tích bằng nhiều phương pháp (mô hình, sơ đồ đoạn thẳng, suy luận...) để học sinh dễ hiểu, dễ nắm bắt bài hơn. Không dừng lại ở kết quả ban đầu ( giải đúng bài toán ) mà nên có yêu cầu cao hơn đối với học sinh. Ví dụ: Như yêu cầu học sinh ra một đề toán tương tự hoặc tìm hiểu nhiều lời giải khác nhau... Giáo viên phải luôn luôn đổi mới phương pháp giạy bằng nhiều hình thức như: trò chơi, đố vui...phù hợp với đối tượng học sinh của mình: "Lấy học sinh để hướng vào hoạt động học, người thầy là người hướng dẫn tổ chức, học sinh nhận thức chủ động trong việc giải toán" Trong giảng dạy giáo vien cần chú ý phát triển tư duy, khả năng phân tích, tổng hợp, khả năng suy luận logic, giúp các em nắm chắc kiến thức cụ thể.Với bài toán có lời văn, đó là cách giải và cách trình bầy lời giải, sử dụng tốt các phương pháp đã nêu ở trên. Không dừng lại ở kết quả ban đầu (giải đúng bài toán) mà nên có yêu cầu cao hơn với học sinh. Ví dụ: yêu cầu một học sinh ra một đề toán tương tự hoặc tìm nhiều lời giải khác nhau... Trong khi giải phải yêu cầu học sinh đặt câu hỏi: "Làm phép tính đó để làm gì?" Từ đó có hướng giải đúng, chính xác. Sau mỗi bài toán, học sinh phải biết xem xét lại kết quả của mình làm để giúp các em tự tin hơn khi giải quyết một vấn đề nào đó. Tôi xin chân thành cám ơn! Long Sơn, ngày 20 tháng 5 năm 2013 Người thực hiện Nguyễn Văn Quang MỤC LỤC NỘI DUNG Trang Phần thứ nhất: ĐẶT VẤN ĐỀ 1 Phần thứ hai: NỘI DUNG 4 I. Cơ sở khoa học 4 1. Cơ sở lý luận 4 2. Cơ sở thực tiễn 5 II. Các phương pháp dùng để giải toán có lời văn 8 1. Phương pháp trực quan 8 2. Phương pháp gợi mở - vấn đáp 8 3. Phương pháp thực hành và luyện tập 8 4. Phương pháp sơ đồ đoạn thẳng 8 5. Phương pháp giảng giải minh họa 9 III. Một số biện pháp để nâng cao chất lượng giải toán 9 có lời văn ở lớp 5 9 Phần thứ ba: KẾT QUẢ ÁP DỤNG NĂM HỌC 2010-2011 17 Phần thứ tư: KẾT LUẬN-ĐỀ XUẤT 18 I. Kết luận 18 II. Đề xuất 19 HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD&ĐT SƠN ĐỘNG XÉT DUYỆT ...

Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 2

* Mặt mạnh

Phân môn Toán trong chương trình giảng dạy Toán lớp 2 chiếm một vị trí quan trọng trong bậc Tiểu học. Nó là nền tảng cho việc học tốt môn Toán ở các lớp tiếp theo của bậc Tiểu học và Trung học sau này.

Việc nâng cao chất lượng dạy học môn Toán ở Tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng, bản thân tôi cũng như nhiều bạn đồng nghiệp còn băn khoăn trăn trở, làm thế nào để nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2. bản thân tôi cần phải nghiên cứu, tìm các biện pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em giải bài toán một cách vững vàng; mặt khác giúp các em có phương pháp suy luận thông qua cách trình bày, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện. Từ đó giúp các em hứng thú, say mê học toán.

*Hạn chế

Với thực tế học sinh lớp tôi còn có một số em giải toán có lời văn thiếu chính xác, chưa đúng, tính toán còn sai, nhiều khi làm bài chưa có kỹ năng phán đoán, suy luận, không biết làm thế nào ? Các em rất sợ học. Mà môn toán là môn “Thể thao trí tuệ” vừa giúp các em giải trí tinh thần, vừa giúp việc dạy tốt môn toán là điều cần thiết mà giáo viên cần quan tâm.

Năm học 2023 – 2023 tôi được phân công dạy lớp 2. Lớp có 20 học sinh.. Cha mẹ các em đều làm nông nên việc hướng dẫn, nhắc nhở con em còn chưa được quan tâm lắm. Còn phó mặc cho nhà trường và giáo viên. Nên trong giờ học toán các em còn làm bài sai nhiều.

Tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng đầu năm như sau:

Qua kết quả khảo sát trên cho thấy tỉ lệ học sinh có khả năng chưa hoàn thành môn học này chiếm tỉ lệ khá cao, thoi thúc tôi phải tìm hiểu xem các em hỏng kiến thức toán ở nội dung nào và qua đó để giúp các em lấp được lỗ hỏng kiến thức ấy vào cuối năm học này.

Từ kết quả khảo sát biết được tỉ lệ học sinh có khả năng chưa hoàn thành môn học này chiếm tỉ lệ khá caolà do những nguyên nhân sau:

– Thứ nhất, là do các em có năng lực học tập còn khó khăn, không theo kịp chưong trình dẫn đến chán học. Đặc biệt là từ khi toàn ngành thực hiện cuộc vận động “Hai không” và đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh ” lấy điểm kiểm tra định kỳ để đánh giá” xếp loại.

– Thứ hai, phải theo hoặc phụ giúp gia đình làm ăn theo mùa vụ (coi trông nhà, không có ngưòi đưa đón đi học).

– Thứ ba, công tác phối hợp giữa gia đình và nhà trường còn hạn chế, gia đình coi việc học của con em mình là nhiệm vụ của nhà trường hoàn toàn, cũng một phần là do giáo viên còn thiếu kinh nghiệm ( Không biết học sinh mình hỏng kiến thức chỗ nào để lấp).

Qua điều tra đầu năm, tôi phân loại những em còn gặp khó khăn về loại toán điển hình nào để tôi kịp thời kèm cặp các em.

Lớp tôi có các em: Tân, Phúc, Duy, Dương, Hân, Ý, Sơn là những em còn khó khăn trong giải toán . Các em thường sợ làm loại toán này. Các em không biết giải, hay trả lời sai, làm tính không đúng.

Trong các giờ lên lớp, tôi luôn động viên các em suy nghĩ tìm ra cách giải. Tôi thường xuyên kiểm tra bài làm của em trên lớp, chấm chữa cùng với học sinh để củng cố kiến thức. Tuyên dương khen thưởng kịp thời bằng điểm số nếu các em có cố gắng (mặc dù chưa đạt yêu cầu) để các em phấn khởi học tập, xoá đi ấn tượng sợ giải toán.

Về nhà: Tôi yêu cầu các em làm lại bài toán vừa giải ở lớp để các em nắm vững cách giải. Tôi còn yêu cầu phụ huynh kết hợp chặt chẽ với giáo viên, có trách nhiệm hướng dẫn con học ở nhà giúp các em làm đầy đủ bài tập giáo viên giao. Ngoài ra tôi còn giao cho những em có năng lực giải toán mỗi em giúp một em còn khó khăn trong giải toán. Lập thành đôi bạn cùng tiến.

2. Giảng bài mới kết hợp củng cố, vận dụng kiến thức đã học

Giảng bài mới trong tiết học Toán hết sức quan trọng. Học sinh có vận dụng luyện tập giải Toán đúng hay sai là ở chỗ này. Do vậy, trong khi dạy, tôi luôn bảo đảm truyền thụ đủ nội dung kiến thức của bài học bằng cách chuẩn bị bài hết sức chu đáo, cẩn thận. Soạn bài trước vài ngày để có thêm thời giannghiên cứu, hiểu kỹ yêu cầu nội dung của bài học.

Với cách thực hiện như thế, học sinh sẽ tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng mà đầy đủ kiến thức, được củng cố kiến thức cũ có hệ thống, vận dụng giải Toán sẽ linh hoạt, không bị gò ép, phụ thuộc, tạo cho học sinh có thói quan chủ động tích cực trong giải Toán.

Ở lớp hai: Các em được ôn lại các dạng toán lớp 1 và luyện thêm các dạng toán này với các số trong phạm vi 100, giúp các em hiểu mối quan hệ giữa các đối tượng với các dữ kiện đơn giản của bài toán. Từ đó hình thành tư duy học toán cho học sinh, giúp các em phân tích, tổng hợp, giải được các dạng toán nhanh, chính xác. Bước đầu có kỹ năng trình bày bài toán.

Hình thức rèn luyện: Học sinh nhận xét dữ kiện, tóm tắt đề toán, tìm ra cách giải. Với cách làm này học sinh mạnh dạn, tự tin vào bản thân, dần dần ham thích giải toán để thể hiện khả năng chính mình.

Vai trò của người thầy rất quan trọng. Lời phát biểu của các em dù đúng hay sai, tôi cũng phải có lời động viên hợp lý. Nếu học sinh phát biểu sai, hoặc chưa đúng, tôi động viên “gần đúng rồi, em cần suy nghĩ thêm nữa, thì sẽ đúng hơn …” giúp các em cố gắng suy nghĩ làm bằng được, chứ không nên nói “sai rồi, không đúng …” làm mất hứng của học sinh, ức chế học sinh tự ti, chán học.

Bước này là bước quan trọng giúp học sinh không sợ giải toán, thích thi nhau làm để khẳng định mình, từ đó có kỹ năng giải toán vững chắc với lời giải thông thường .

Ví dụ 1 bài 3 trang 63: Mảnh vải màu xanh dài 34dm, mảnh vải màu tím ngắn hơn mảnh vải màu xanh 15dm. Hỏi mảnh vải màu tím dài bao nhiêu đê-xi-mét?

Một số học sinh trình bày bài giải như sau:

Số dm mảnh vải màu tím dài là:

34 – 15 = 19 (dm)

Đáp số: 19 dm

Hoặc:

Mảnh vải màu tím là:

34 – 15 = 19 (dm)

Đáp số: 19 dm

Tôi liền đưa ra các bài học sinh giải lên bảng, chỉ ra từng chỗ sai cụ thể cho học sinh và để học sinh so sánh đối chiếu các bài với nhau: bài trình bày sai- bài trình bày đúng để học sinh thấy được chỗ sai của mình.

Bài giải được trình bày như sau:

Độ dài mảnh vải màu tím là:

34 – 15 = 19 (dm)

Đáp số: 19 dm

Hoặc:

Mảnh vải màu tím dài là:

34 – 15 = 19 (dm)

Đáp số: 19 dm

Thường khi giải bài toán có lời văn với các số đo độ dài, học sinh thường viết cả tên đơn vị cùng với số đo hoặc viết tắt tên đơn vị đo ở câu lời giải.

Đối với bài toán có lời văn mà có số đo độ dài, tôi phải hướng dẫn học sinh cách trình bày bài giải cho đúng từ, câu trả lời đến các phép tính.

Ví dụ 2: Thùng thứ nhất đựng 25 lít dầu. Thùng thứ hai đựng 30 lít dầu. Hỏi thùng nào đựng nhiều dầu hơn và nhiều hơn bao nhiêu lít ?

Có học sinh giải như sau :

Số lít dầu thùng đựng nhiều hơn là :

30 – 25 = 5 (lít)

Đáp số : 5 lít

Tôi hỏi : Ta cần tìm điều gì ?

Học sinh trả lời : Thùng nào đựng nhiều hơn và nhiều hơn bao nhiêu lít ?

Tôi lại hỏi tiếp : Câu trả lời này đã nói rõ điều đó chưa ? Còn thiếu ý nào ?

Lúc này học sinh sẽ nhận ra trong câu trả lời này chưa nêu được thùng nào đựng nhiều hơn và phải bổ sung và chữa vào bài giải là :

Thùng thứ hai đựng nhiều hơn và nhiều hơn là :

30 – 25 = 5 (l)

Đáp số : 5 lít.

Bên cạnh việc cung cấp đủ trọng tâm bài học, rèn cách luyện tập thành thạo, tôi còn luôn quan tâm tới việc mở rộng, nâng cao kiến thức từ chính những bài tập trong SGK, vở bài tập toán.

Từ tư duy đúng, tìm được cách giải đúng giúp các em trình bày bài giải đúng

Hợp lý về lời giải, về phép tính, cách ghi tên đơn vị và ghi đáp số để hoàn thiện bài toán.

Bước này tuy đơn giản nhưng tương đối khó với học sinh. Đó là lời văn ngắn gọn, chính xác, đúng nội dung bài để trả lời (phép tính tìm gì ?) theo thứ tự.

Lời giải: lời giải – phép tính – đáp số.

Cần lưu ý:Phép tính trong giải toán có lời văn không ghi tên đơn vị (danh số) đó là phép tính trên số nên đặt tên đơn vị trong vòng đơn để giải thích, mục đích thực hiện phép tính.

Ví dụ: Lớp 2A có 37 học sinh, trong đó có 18 học sinh nữ. Hỏi lớp 2A có bao nhiêu học sinh nam?

Giáo viên phải đưa ra 1 số câu hỏi đàm thoại gợi ý học sinh gặp khó khăn trong học tập suy đoán, lựa chọn cách giải đúng.

Trước tiên phải hướng dẫn học sinh tóm tắt đầu bài.

Tóm tắt:

Lớp 2A có : 37 học sinh

Nữ : 18 học sinh

Nam : … học sinh?

Hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn chính xác.

Giải Số học sinh nam lớp 2A có là:

37 – 18 = 19 (học sinh)

Đáp số : 19 học sinh nam.

Tìm cách giải đúng chưa đủ, giáo viên còn giúp học sinh tìm nhiều cách đặt lời giải để phát huy trí lực học sinh tạo điều kiện cho tư duy toán phát triển

Bước này đối với học sinh còn khó khăn trong giải toán là tương đối khó. Song người giáo viên phải hướng dẫn gợi mở, giúp học sinh thể hiện được khả năng giải toán của mình là cần thiết.

Ví dụ: Lan cắt được 46 bông hoa, Hoa cắt ít hơn Lan 9 bông hoa. Hỏi Hoa cắt được bao nhiêu bông hoa?

Giáo viên phải yêu cầu học sinh đọc kỹ đầu bài toán. Tóm tắt đầu bài bằng cách vẽ sơ đồ (nếu vẽ được) để tìm ra cách giải đúng, và nhiều cách khác.

Tóm tắt

Lan : 46 bông hoa

Hoa cắt ít hơn Lan : 9 bông hoa

Hoa cắt : … bông hoa?

Giải cách 1

Hoa cắt được số bông hoa là:

46 – 9 = 37 ( bông hoa)

Đáp số: 37 bông hoa

Nhìn vào sơ đồ các em tìm lời giải khác

Lan

Hoa

Có em sẽ giải như sau :

Giải cách 2

Số bông hoa Hoa cắt được là:

46 – 9 = 37 ( bông hoa)

Đáp số: 37 bông hoa

Giáo viên giải thích cho học sinh hiểu : Thực ra hai lời giải này cùng là tìm số bông hoa của Hoa cắt. Dù các em có nhìn vào sơ đồ thì vẫn là tìm số bông hoa của hoa cắt: Tôi cho học sinh nhận xét.

Các em phải chú ý tên đơn vị của mỗi phép tính. Từ đó học sinh tìm được cách giải toán triệt để bằng nhiều cách đặt lời giải khác nhau. Học sinh nắm chắc đề toán, hiểu kỹ đề, để tìm cách giải khác có lời văn chính xác, phát triển tư duy toàn diện.

Kết hợp giải toán là rèn luyện kỹ năng tính toán giúp học sinh giải toán đúng tránh nhầm lẫn khi tính toán

Vì có những em nhiều khi cách giải đúng nhưng tính toán sai dẫn đến kết quả bài toán sai. Vậy tôi phải nhắc nhở học sinh khi làm bài phải tính toán chính xác, trình bày khoa học rõ ràng. Nếu là phép + – trong bảng học thuộc để vận dụng nhanh. Nếu là các phép + – ngoài bảng các em phải đặt tính cột dọc.

6. Chấm chữa kịp thời để uốn nắn, khắc sâu kiến thức, rèn kỹ năng giải toán

Sau khi cung cấp kiến thức bài học, học sinh vận dụng giải quyếtcác bài tập trong “Vở bài tập toán 2”. Tôi luôn cố gắng đảm bảo 100 học sinh trong lớp đủ bài các bài tập.

Tuy nhiên gặp những bài khó, học sinh có lỗi lớn về đường lối giải, nhiều học sinh sai thì tôi yêu cầu học sinh nhận xét lỗi sai ở chỗ nào ? Cách sửa thế nào ?

Thường thì tôi dùng học sinh có lỗi sai đó nhận xét và sửa trước, nếu học sinh làm được điều đó có nghĩa là cùng một lúc tôi đã củng cố cho học sinh đó và đồng thời chữa chung cho nhiều em khác. Với cách làm như vậy lỗi sai không bị kéo dài, mà học sinh có thói quen làm toán đúng, chủ động giải. Tôi cố gắng chữa triệt để những lỗi sai bằng cách :

+ Học sinh chữa lỗi sai nhỏ như : Tên đơn vị, kết quả… vào ngay trong vở “Bài tập toán 2”, lỗi lớn như sai cách giải, câu trả lời chưa rõ ý thì chữa ngay vào vở toán khác do lớp quy định. Sau đó tôi kiểm tra chấm chữa, nhận xét phần chữa của học sinh, học sinh phải tự làm bài đó một lần nữa để khắc sâu bài học. Có những học sinh chữa tới hai lần mới đúng cũng được tôi kiểm tra triệt để, cuối cùng phải chữa đúng mới thôi.

+ Tôi rất chú ý coi trọng tới việc chữa bài của học sinh. Khi học sinh chữa bài, tôi yêu cầu học sinh ngoài việc chữa đúng còn phải trình bày lưu loát, sạch đẹp, rõ ràng hơn. Do đó mà học sinh chữa bài rất thận trọng, chính điều này giúp học sinh nhớ rất kỹ bài giải, lần sau gặp dạng toán khó học sinh rất ít sai sót.

III. Hiệu quả và khả năng áp dụng

Vận dụng phương pháp tổ chức các hoạt động cho học sinh vào bài dạy ở lớp tôi, tôi thấy kết quả cao hơn so với trước. Học sinh rất hứng thú tự tin và tích cực học tập, học sinh biết tư duy một cách độc đáo, linh hoạt sáng tạo. Học sinh tập trung hơn, giờ học sinh động hơn. Từ đó hiệu quả cuối năm học được nâng cao hơn rõ rệt qua bảng số liệu sau:

Kết quả cụ thể cuối năm:

Kết quả khảo sát đầu năm:

*Đối với giáo viên:

Để thực hiện dạy một tiết Toán 2 có kết quả, đặc biệt là dạy các bài giải toán có lời văn thì điều cần thiết phải sử dụng các biện pháp, giải pháp nêu trên để học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo vào việc khai thác mọi tiềm năng trí tuệ của học sinh. Qua thực tế giảng dạy cho thấy sử dụng các biện pháp, giải pháp nêu trên trong dạy học toán theo tôi là có hiệu quả, chất lượng của học sinh cao hơn, học sinh giải toán dễ dàng hơn. Bởi vì đây là các biện pháp, giải pháp tích cực, là một yêu cầu cần thiết, phù hợp với đặc điểm phát triển tâm sinh lý các em.

*Đối với học sinh:

– Giúp học sinh hứng thú và tự tin hơn trong học và hành. Qua giờ học giải toán có lời văn, ngoài những kiến thức cơ bản học sinh còn được khuyến khích và rèn cách diễn đạt, cách suy nghĩ linh hoạt, góp phần phát triển ngôn ngữ và trình độ tư duy của học sinh qua môn toán lớp 2.

Our prices are quite reasonable to encourage customers to keep using assignment writing services https://midnightpapers.com/ to achieve their academic success.

Cập nhật thông tin chi tiết về Đề Tài Nâng Cao Chất Lượng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 5 trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!