Xu Hướng 5/2023 # Di Tích Lịch Sử Chiến Trường Điện Biên Phủ (Bổ Sung 23 Điểm Di Tích) # Top 6 View | Ictu-hanoi.edu.vn

Xu Hướng 5/2023 # Di Tích Lịch Sử Chiến Trường Điện Biên Phủ (Bổ Sung 23 Điểm Di Tích) # Top 6 View

Bạn đang xem bài viết Di Tích Lịch Sử Chiến Trường Điện Biên Phủ (Bổ Sung 23 Điểm Di Tích) được cập nhật mới nhất trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Di tích lịch sử Chiến trường Điện Biên Phủ (Bổ sung 23 điểm di tích)

Di tích lịch sử Chiến trường Điện Biên Phủ là bằng chứng lịch sử về chiến thắng lẫy lừng của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, thể hiện ý chí quyết tâm của cả dân tộc trước một lực lượng quân sự hùng mạnh, phương tiện chiến tranh hiện đại. Chiến thắng Điện Biên Phủ đánh dấu một bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam, giải phóng hoàn toàn một nửa đất nước, mở đầu thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc, góp phần thúc đẩy quá trình tan rã từng mảng lớn hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.

Với ý nghĩa và tầm vóc đặc biệt, di tích lịch sử Chiến trường Điện Biên Phủ đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt năm 2009. Tuy nhiên, còn một số địa điểm in đậm dấu ấn của chiến dịch lịch sử này chưa được xác định kiểm kê, lập hồ sơ khoa học để xếp hạng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu bổ sung những địa điểm di tích Chiến trường Điện Biên vẫn tiếp tục được thực hiện.

23 điểm bổ sung vào di tích lịch sử Chiến trường Điện Biên Phủ phân bố trên địa bàn: thành phố Điện Biên Phủ, huyện Tuần Giáo, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, có tổng diện tích các khu vực bảo vệ là: 545.505,75m2, trong đó: khu vực bảo vệ I: 349.708,72 m2, khu vực bảo vệ II: 195.797,03 m2.

1. Hệ thống di tích tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ

1.1. Di tích Đồi D (D1, D2, D3), (phường Mường Thanh và phường Tân Thanh, thành phố Điện Biên Phủ),

Đồi D1 đã được xếp hạng là di tích thành phần thuộc Di tích quốc gia đặc biệt Chiến trường Điện Biên Phủ. Riêng Đồi D2, D3 chưa được xếp hạng, vì vậy, đợt này được đề nghị bổ sung . Đồi D2, khu vực bảo vệ I là 8.279,85m2 (không có khu vực bảo vệ II). Đồi D3, khu vực bảo vệ I là 800m2, khu vực bảo vệ II là 7.600m2.

Thực dân Pháp đã xây dựng và biến cứ điểm Đồi D để trực tiếp khống chế khu Trung tâm và sân bay Mường Thanh. Đúng 17 giờ ngày 30/3/1954, pháo của ta đồng loạt dội xuống đồi D và các cao điểm phía Đông khu trung tâm Mường Thanh, tạo điều kiện cho các đơn vị bộ binh tiến lên. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, quân ta giành giật với địch từng ụ súng, từng mét chiến hào. Sau 2 ngày, quân ta hoàn toàn làm chủ cứ điểm D1, D2, D3.

1.2. Điểm Pháo 105mm của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (phường Thanh Bình, thành phố Điện Biên Phủ), có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 334,4m2 (không có khu vực bảo vệ II).

Từ ngày 20 – 22/11/1953 đã có 6 tiểu đoàn dù của Pháp, với khoảng 4.500 lính có mặt tại Điện Biên Phủ. Sau khi chiếm đóng Điện Biên thành công, thực dân Pháp đã cho xây dựng nơi đây thành một Tập đoàn quân sự mạnh, gồm 49 cứ điểm chia thành 8 cụm nằm trong ba phân khu đó là phân khu Bắc, phân khu Trung Tâm và phân khu Nam.

1.3. Di tích Đồi Cháy (phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ) có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 23.856,1m2 (không có khu vực bảo vệ II).

Trung đoàn 174, Đại đoàn 316 đã lấy đồi Cháy làm nơi đặt trận địa cối và Sở chỉ huy Trung đoàn. Đêm 06/5/1954, Trung đoàn 174 được lệnh công kích vào cứ điểm A1. Sau khi chiếm được A1, Trung đoàn 174 để lại một số đơn vị chốt giữ A1, còn lại thì rút quân về bên Đồi Cháy chỉnh đốn lại đội hình. Các đơn vị súng cối, pháo 75mm trên Đồi Cháy bắn yểm hộ cho các phân đội bộ binh tiến vào trung tâm của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

1.4. Di tích Đồi F (phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ), diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 59.535,97m2 (không có khu vực bảo vệ II). 

Cùng với đồi A1, đồi F là một trong các điểm cao quan trọng nhất, có tác dụng che sườn cho phân khu Đông, đồng thời cùng các điểm cao khác tạo thành bình phong bảo vệ cho khu trung tâm Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Về phía ta, nếu chiếm được đồi F thì nơi đây có thể dùng làm trận địa hoả lực, đặt trung liên, đại liên, DKZ trực tiếp uy hiếp Al, C1, C2, phong toả cả bên sườn và chính diện trận địa Pháp về phía Đông, chi viện cho bộ binh xung phong thuận lợi. Đồi F được Quân đội ta làm chủ hoàn toàn vào rạng sáng ngày 07/5/1954.

1.5. Di tích Đồi E2 (phường Tân Thanh và phường Him Lam, thành phố Điện Biên Phủ) có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 76.466,5m2 (không có khu vực bảo vệ II).

Đồi E2 được chọn làm địa điểm để xây dựng Sở chỉ huy phía trước của Đại đoàn 312. Khi quân ta tấn công cứ điểm E1, địch điều lực lượng lên cứ điểm E2 để chiếm giữ nhưng đã bị pháo và súng cối của ta khống chế, buộc địch phải rút lui không thể tiến lên và chúng lại rút về cứ điểm E1.

2.2. Hệ thống di tích của Quân đội Nhân dân Việt Nam

2.1. Di tích Đài quan sát chiến dịch Điện Biên Phủ tại Mường Phăng (xã Mường Phăng, huyện Điện Biên) có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 160m2 và khu vực bảo vệ II là 5.230,5m2.

Ngọn núi Pu Tó Cọ được Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái chọn để đặt Đài quan sát, nằm gần Sở chỉ huy chiến dịch. Bộ chỉ huy chiến dịch đóng tại khu rừng Mường phăng cũng như Đài quan sát của Sở chỉ huy đóng trên đỉnh Pú Tó Cọ được giữ bí mật tuyệt đối, từ khi chuyển tới cho đến khi kết thúc chiến dịch.

2.2. Di tích Trận Hậu cần hỏa tuyến Nà Tấu Km62 (xã Nà Nhạn, huyện Điện Biên) có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 380,5m2 và khu vực bảo vệ II là  4.520,5m2.

Trạm hậu cần hỏa tuyến Nà Tấu đóng ở đây trong vòng 13 ngày (từ 18 đến 30/01/1954) cùng với Bộ chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ.

2.3. Di tích Đèo Pha Đin (xã Tỏa Tình, huyện Tuần Giáo), có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 137.083,4m2 và khu vực bảo vệ II là 137.686,53m2.

Đèo Pha Đin dài 32 km, điểm đầu thuộc xã Tỏa Tình, huyện Tuần Giáo (tỉnh Điện Biên) và kết thúc ở xã Phỏng Lái, huyện Thuận Châu (tỉnh Sơn La). Đây là tuyến đường huyết mạch của Quân đội ta nối từ hậu phương ra chiến dịch. Với vị thế chiến lược, muốn vào Điện Biên Phủ thì bắt buộc phải qua đèo Pha Đin. Vì thế, địch cho máy bay tuần tiễu khu vực đèo hàng chục lần mỗi ngày, thả hàng trăm quả bom các loại (bom phá, bom nổ chậm, bom bi, bom Na-pan…). Đèo Pha Đin được ví như “túi bom”, có ngày địch ném xuống đây 160 quả bom, trung bình mỗi ngày chịu 16 tấn bom đạn. Tại đây, đã có hơn 8.000 thanh niên xung phong ngã xuống để đảm bảo thông xe, thông tuyến, phục vụ kịp thời cho việc chuyển quân, chuyển vũ khí, lương thực thực phẩm.

2.4. Di tích Đường Kéo pháo bằng tay (xã Nà Nhạn, huyện Điện Biên) có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 27.239,5m2 và khu vực bảo vệ II là 15.557,2m2

Sau khi cân nhắc tình hình tại Điện Biên Phủ, Bộ chỉ huy mặt trận quyết định đưa pháo hạng nặng lên chiếm lĩnh trận địa. Những khẩu pháo nặng hàng tấn vượt qua núi cao, vực thẳm lên địa điểm tập kết chỉ dựa vào sức người. Với khẩu hiệu “mở đường thắng lợi”, sáng ngày 15/01/1954, lực lượng mở đường với hơn 5.000 người, với những công cụ thô sơ như dao, rìu, cuốc, xẻng, xà beng,… đào vào các sườn núi cao hiểm trở, vừa cắm mốc, vừa làm hầm trú ẩn, hầm công sự, trong khi quân địch luôn cho máy bay thả bom phá hủy… Sau 20 giờ, một con đường kéo pháo bằng tay dài là 15km, rộng 3m đã được hoàn thành vượt thời gian quy định 4 giờ.

2.5. Di tích Sở chỉ huy Chiến dịch ở hang Thẳm Púa (xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo), diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 2.869,3m2 và khu vực bảo vệ II là 16.586,75m2

Đây là vị trí đặt chân đầu tiên của Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ trong 32 ngày (từ 17/12/1953-17/01/1954). Tại đây, ngày 19/12/1953, Bộ chỉ huy chiến dịch đã triển khai kế hoạch đánh địch ở Lai Châu không cho rút về Điện Biên Phủ và bao vây quân địch ở Điện Biên Phủ, chốt chặt không cho chúng rút chạy về Thượng Lào.

2.6. Di tích nơi anh Bế Văn Đàn hy sinh (xã Mường Pồn, huyện Điện Biên) có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 8.761,5m2 (không có khu vực bảo vệ II).

Trận chiến 12/12/1953 ở Mường Pồn, trong một tình thế khẩn cấp, Bế Văn Đàn tuy đã bị thương nhưng vẫn dũng cảm nhấc hai chân súng tiểu liên đặt lên vai mình làm bệ đỡ để đồng đội siết cò, trút đạn về phía quân địch, bẻ gãy đợt tấn công. Bế Văn Đàn bị thêm hai vết thương nặng (do 2 chân súng tỳ lên vai), máu chảy ròng ròng, đã anh dũng hi sinh trong tư thế hiên ngang, hai tay còn giữ chặt chân súng… Tấm gương hi sinh oanh liệt của anh đã cổ vũ cán bộ, chiến sĩ trên toàn mặt trận kiên quyết xông lên đánh quân thù.

2.7. Di tích Trận địa cao xạ 37mm của Tiểu đoàn 394, Trung đoàn 367, Đại đoàn 351 ở Bản Mển (xã Thanh Nưa, huyện Điện Biên), có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 2.870,2m2 (không có khu vực bảo vệ II).

Đây là vị trí trận địa pháo để khống chế và tiêu diệt địch tại phân khu Bắc (Độc lập và Bản Kéo), tạo điều kiện để bộ binh đánh vào sào huyệt của địch. Sau khi tiêu diệt được Độc Lập, Bản Kéo, trận địa pháo của Tiểu đoàn 394 chuyển đến bản Tâu, tiếp tục hiệp đồng với bộ binh tiêu diệt các cứ điểm thuộc Trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

2.8. Di tích Trận địa cao xạ 37mm của Tiểu đoàn 394, Trung đoàn 367, Đại đoàn 351 ở Bản Tâu (xã Hua Thanh, huyện Điện Biên) có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 2.972,15m2 (không có khu vực bảo vệ II).

Vào lúc 15 giờ 30 phút, ngày 14/3/1954 khi các đơn vị bộ binh của Đại đoàn 308, 312 chuẩn bị tiến công cụm đồi Độc Lập, có hai tốp máy bay của địch từ hướng Đông bay tới. Tiểu đoàn pháo cao xạ 394, Trung đoàn 367 đã bắn rơi tại chỗ chiếc Hen Đi Vơ đi đầu. Những chiếc khác, trước lưới lửa mãnh liệt của pháo cao xạ ta, ném bom loạn xạ rồi tháo chạy. Đêm hôm đó, quân ta tiêu diệt cụm cứ điểm đồi Độc Lập.

2.9. Di tích Trận địa cao xạ 37mm của tiểu đoàn 383, Trung đoàn 367, Đại đoàn 351 ở Bản Hồng Líu (phường Noong Bua, thành phố Điện Biên Phủ), diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 3.012,59m2(không có khu vực bảo vệ II)

Sáng ngày 14/3/1954, Tiểu đoàn 383 đã bắn cháy chiếc máy bay đầu tiên của Pháp trên bầu trời Điện Biên Phủ. Tiểu đoàn 383 đã sử dụng pháo cao xạ 37mm, cùng các đơn vị khác khống chế bầu trời để bộ binh yên tâm tiêu diệt cứ điểm Độc Lập. Trong đợt tấn công thứ hai và thứ ba của chiến dịch, Tiểu đoàn 383 đã sử dụng pháo cao xạ 37mm khống chế bầu trời, tạo điều kiện cho bộ binh tiêu diệt các cứ điểm của Pháp, tiến đến tổng công kích vào chiều ngày 07/5/1954.

2.10. Di tích Khu vực tập kết Hậu cần tại ngã ba Tuần Giáo (thị trấn Tuần Giáo, huyện Tuần Giáo), diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 50m2 (không có khu vực bảo vệ II). Đây là địa điểm tập kết lương thực, thực phẩm cho chiến dịch Điện Biên Phủ được vận chuyển đến từ các hướng.

2.11. Trận địa pháo 105mm của Đại đội 806, tiểu đoàn 594, Trung đoàn 54, Đại đoàn 351 ở xã Thanh Minh (xã Thanh Minh, thành phố Điện Biên Phủ), diện tích khu vực bảo vệ I là 1.233,6m2 (không có khu vực bảo vệ II)

Tại đây, quân ta đã bắn những loạt đạn pháo 105mm đầu tiên vào cứ điểm Him Lam mở màn cho chiến dịch Điện Biên Phủ. 22 giờ 30 phút ngày 13/3/1954, Đại đoàn 312 đã tiêu diệt trung tâm đề kháng Him Lam, xóa sổ Tiểu đoàn 3 của địch, sau đó, pháo 105mm đã tấn công vào cứ điểm Độc Lập, uy hiếp Bản Kéo.

2.12. Di tích Trận địa pháo H6 của tiểu đoàn 224, Trung đoàn 675, Đại đoàn 351 ở xã Thanh Minh (xã Thanh Minh, thành phố Điện Biên Phủ) có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 1.108,76m2 (không có khu vực bảo vệ II).

Đêm 06/5/1954, Tiểu đoàn H6 tham gia hỏa lực, bắn 3 đợt (618 viên) vào các mục tiêu, góp phần làm cho địch suy sụp tinh thần. Sáng sớm ngày 07/5/1954, Tiểu đoàn được phổ biến thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “hôm nay địch sẽ ra sức đối phó, tập trung lực lượng pháo kích và oanh tạc. Ta phải tích cực, cương quyết, bền bỉ đánh bại đợt phản kích cuối cùng của địch”. Đến 9 giờ 30, Tiểu đoàn được lệnh bắn 2 loạt đạn (144 viên) vào khu vực Mường Thanh, trong đó có cả 3 mục tiêu cấp trên đã chỉ định. Một cột lửa khói khổng lồ bao trùm khu vực  mục tiêu. 15 giờ chiều, quân ta được lệnh tổng công kích trên toàn mặt trận đánh thẳng vào Sở chỉ huy địch bắt sống tướng Đờ Cát và toàn bộ Ban tham mưu của Tập đoàn cứ điểm. Đến 24giờ, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ kết thúc toàn thắng.

2.13. Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ ở Hang Huổi He (xã Nà Nhạn, huyện Điện Biên) có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 443m2 và khu vực bảo vệ II là 1.443,5m2

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Sở chỉ huy của Bộ chỉ huy được đặt tại 3 địa điểm: Hang Thẳm Púa, Hang Huổi He và Mường Phăng. Hang Thẳm Púa là Sở chỉ huy đầu tiên của Bộ chỉ huy trong thời gian 32 ngày (từ 17/12/1953 – 17/1/1954). Hang Huổi He là Sở chỉ huy thứ 2 của Bộ chỉ huy chiến dịch trong thời gian 13 ngày (từ ngày 18 – 30/01/1954).

2.14. Di tích Sở chỉ huy Trung đoàn 98, Đại đoàn 316 (phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ), có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 2.662,7m2 (không có khu vực bảo vệ II).

Sở chỉ huy Trung đoàn 98 đóng ở Mường Thanh từ tháng 12/1953 – 5/1954. Tại đây, trong đợt tấn công thứ hai, Trung đoàn 98 nhận lệnh tiêu diệt cứ điểm C1, C2, ngoài ra còn có đơn vị khác đánh hiệp đồng. Tại cứ điểm Đồi C, các chiến sỹ Trung đoàn 98 đã đánh tan quân Pháp, mở toang cánh cửa phía Đông để tấn công vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

2.15. Di tích Trận địa pháo của Đại đội 815, Tiểu đoàn 383, Trung đoàn 367, Đại đoàn 351 (thuộc bản Púng Tôm, xã Thanh Minh, thành phố Điện Biên Phủ), diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 2.624,2m2 và khu vực bảo vệ II là 8.512m2

Đúng 17giờ 13/3/1954, cùng với pháo 105 mm của ta, pháo cao xạ 37 mm của Đại đội 815, Tiểu đoàn 383 bắt đầu bắn những loạt đạn đầu tiên vào Him Lam, khống chế bầu trời, không cho máy bay địch tiếp tế và viện trợ. Chỉ trong vòng hơn 5 tiếng đồng hồ, Khẩu đội 3 cùng với 3 Khẩu đội khác của Đại đội 815 hiệp đồng với công binh, bộ binh tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm Him Lam.

2.16. Di tích Trụ sở Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Lai Châu (xã Mường Phăng, huyện Điện Biên) có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 4.967,1m2, khu vực bảo vệ II là 18.183,2m2.

Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh Lai Châu, được thành lập trên cơ sở Ủy ban Kháng chiến hành chính các huyện, xã đã có từ trước (thành lập đầu tiên ở huyện Điện Biên và Tuần Giáo) vào tháng 12/1953, do đồng chí Hoàng Bắc Dũng, Trưởng Ban cán sự Đảng tỉnh làm Chủ tịch, 2 ủy viên là đồng chí Lò Văn Hặc và Hoàng Hoa Thưởng.

2.17. Di tích Tòa soạn tiền phương của Báo Quân đội Nhân dân (xã Mường Phăng, huyện Điện Biên), diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 4.919m2 (không có khu vực bảo vệ II).

Ngày 28/12/1953, báo Quân đội Nhân dân ra số đầu tiên phát hành tại mặt trận Điện Biên Phủ, mang số 116 lấy theo số báo ở hậu phương. Trải qua 140 ngày đêm, báo Quân đội Nhân dân tại mặt trận Điện Biên Phủ đã ra được 33 số, góp phần tuyên truyền, cổ vũ, động viên tinh thần chiến đấu cho toàn quân…

2.18. Di tích Sở chỉ huy Tiền phương của Tổng Cục cung cấp (xã Mường Phăng, huyện Điện Biên), diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 13.666m2 (không có khu vực bảo vệ II).

Sở chỉ huy Tiền phương nằm ở sườn núi Lùng Pá Chả (tiếng Thái có nghĩa là “lán trong rừng tre”), hữu ngạn suối Ta Hiện, gần với Trụ Sở Ủy ban kháng chiến hành chính và Sở chỉ huy chiến dịch tại Mường Phăng. Tại đây, ta đã huy động được số lương – thực phẩm đáp ứng đủ nhu cầu cho chiến dịch.

Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, 23 điểm di tích chiến thắng Điện Biên Phủ (thành phố Điện Biên Phủ, huyện Tuần Giáo, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên) đã được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 2367/QĐ-TTg ngày 23/12/2015 xếp hạng bổ sung vào Hồ sơ di tích lịch sử Chiến trường Điện Biên Phủ (đã được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt tại Quyết định số 1272/QĐ-TTg ngày 12/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ)./.

Chiến Dịch Điện Biên Phủ

Theo đánh giá của tướng H.Navarre và các nhà quân sự Pháp-Mỹ thì “Điện Biên Phủ là một vị trí chiến lược quan trọng đối với chiến trường Đông Dương và cả miền Đông Nam Á, nằm trên trục giao thông nối liền các miền biên giới của Lào, Thái Lan, Miến Điện (Myanmar) và Trung Quốc. Từ Điện Biên Phủ, quân Pháp có thể bảo vệ được Lào, rồi từ đó đánh chiếm lại các vùng đã mất ở Tây Bắc trong những năm 1952-1953 và tạo điều kiện thuận lợi để tiêu diệt các sư đoàn chủ lực của Việt Nam”.

Đánh giá Điện Biên Phủ là một vị trí chiến lược quan trọng bậc nhất ở Đông Dương, nên sau khi đánh chiếm Điện Biên Phủ vào ngày 20/11/1953, quân Pháp không ngừng tăng thêm binh lực, vũ khí, trang thiết bị quân sự, xây thêm nhiều công sự, đồn lũy và các loại vật tư khác. Được sự giúp đỡ của Mỹ về cố vấn, trang bị kỹ thuật, kinh tế, Pháp đã xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất Đông Dương.

Tính đến tháng 3/1954, tại Điện Biên Phủ đã có 12 tiểu đoàn và bảy đại đội bộ binh, ba tiểu đoàn pháo binh, một đại đội xe tăng, một phi đội máy bay thường trực (14 chiếc). Sau này trong quá trình chiến dịch, quân Pháp tăng viện thêm bốn tiểu đoàn, hai đại đội lính dù, tổng cộng có 17 tiểu đoàn, phần lớn đều là lính tinh nhuệ. Ngoài ra còn có các quân chủng pháo binh, công binh, thiết giáp, phân đội hỏa pháo. Tổng số quân tăng lên hơn 16.000 người và 300 máy bay vận tải tiếp tế, có sự chi viện của không quân Mỹ.

Tại Hội nghị phổ biến nhiệm vụ quân sự và kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954 diễn ra cùng thời điểm quân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, Tổng Tư lệnh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng, “địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ là để che chở cho Lai Châu và Thượng Lào bị uy hiếp. Như vậy là bị động phân tán lực lượng để đối phó với ta. Vô luận rồi đây, địch tình thay đổi thế nào, địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ căn bản là có lợi cho ta.”

Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ với bí danh Trần Đình, nhất trí thông qua phương án tác chiến của Tổng Quân ủy. Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Hoàng Văn Thái – Tham mưu trưởng, Lê Liêm – Chủ nhiệm Chính trị, Đặng Kim Giang – Chủ nhiệm Cung cấp.

Với những nỗ lực cao nhất, Việt Nam đã dồn hết sức người, sức của cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhiều tầng lớp nhân dân hăng hái lên đường tham gia chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ như công nhân, nông dân, trí thức, văn nghệ sỹ… Và đã có biết bao tấm gương hy sinh trên đường ra trận, nhiều anh hùng quên mình xả thân cho cuộc kháng chiến.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã khẳng định đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ tự lực cánh sinh, đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước, ý chí chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.

Đầu tháng 3/1954, thời gian chuẩn bị mọi mặt cho cuộc tiến công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ với phương châm “đánh chắc, tiến chắc” đã hoàn thành. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ có tất cả 49 cứ điểm, được chia làm ba phân khu. Trên chiến trường, ta mở ba đợt tiến công vào Điện Biên Phủ.

Đợt một của chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn ngày 13/3/1954, với trận tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam thuộc vòng ngoài Phân khu Bắc của tập đoàn cứ điểm. Đợt hai diễn ra ngày 30/3/1954, đánh vào phân khu trung tâm. Đợt ba chiến dịch diễn ra ngày 1/5 và kết thúc ngày 7/5/1954, đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Sau 56 ngày đêm chiến đấu, hy sinh, gian khổ, quân và dân Việt Nam đã tiêu diệt toàn bộ Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn Hội nghị cùng ký Hiệp định Geneva chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược (1945-1954) ở Đông Dương, miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng. Hiệp định Geneva đã tạo được cục diện mới, tạo tiền đề và cơ sở pháp lý rất quan trọng để dân tộc Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).

20/11/1953, Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, manh nha ý định xây dựng căn cứ quân sự ở đây và ngăn chặn quân chủ lực Việt Nam chiếm đóng Tây Bắc.

03/12/1953, Navarre chính thức quyết định xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ sau khi nghiên cứu, xem xét và cân nhắc những điều kiện thuận lợi tại thung lũng lòng chảo phía Tây Bắc Việt Nam. Quyết định này đưa tới sự ra đời của tập đoàn cứ điểm “chưa từng thấy” ở Đông Dương với 49 cứ điểm mạnh mẽ, được đầu tư viện trợ tối đa và binh lực và hỏa lực và sự dẫn dắt, chỉ huy của Đại tá De Castries.

06/12/1953, Bộ Chính trị quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược trong Đông – Xuân 1953 – 1954 của ta với Thực dân Pháp, đồng thời cử Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Bí thư kiêm Tổng tư lệnh mặt trận.

26/01/1954, Tổng tư lệnh mặt trận, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định chuyển phương châm tác chiến từ “Đánh nhanh, thắng nhanh” sang “Đánh chắc, tiến chắc”.

31/01/1954, Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ chuyển vị trí đóng quân đến khu rừng Mường Phăng trên đại điểm xã Mường Phăng, huyện Điện Biên cách Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ khoảng 40km đường bộ và khoảng hơn 15km đường chim bay.

13/3/1954, Sau khi chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt, ta chính thức mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ tại Trung tâm đề kháng Him Lam, một trong những cụm cứ điểm mạnh nhất của Pháp nằm phía Đông Bắc Tập đoàn cứ điểm.

31/3/1954, Đợt tấn công thứ hai vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, nhiệm vụ tập trung vào dãy cao điểm phía Đông, khu sân bay Mường Thanh, thừa cơ tiến vào khu trung tâm, nơi có Sở chỉ huy của De Castries.

01/5/1954, Đợt tấn công cuối cùng nhằm kết thúc số phận của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được tiến hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất là tiêu diệt nốt A1 và C2, thừa cơ tiến hành tổng công kích.

06/5/1954, vào lúc 20 giờ 30 phút, khối bộc phá 960kg nổ trên Đồi A1 báo hiệu ngày tàn của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

07/5/1954, sau khi mở được chiếc chìa khóa cuối cùng A1, quân ta từ các hướng tiến thẳng vào hầm chỉ huy của De Castries. Không có sự kháng cự, De Castries cùng Bộ chỉ huy quân Pháp và sau đó là toàn bộ quân đồn trú từ các hầm trú ẩn và các cứ điểm ra hàng.

21/7/1954, Hiệp định Gionever được ký kết, Pháp và các nước tham gia công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, rút quân khỏi Đông Dương.

Chiến Thắng Điện Biên Phủ 1954

Chiều 7/5/1954, lá cờ “Quyết chiến – Quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Năm 1954, trên đại ngàn Tây Bắc đất nước, quân và dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đạp bằng mọi khó khăn thử thách, đập tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mạnh nhất Đông Dương của thực dân Pháp và can thiệp của đế quốc Mỹ, dựng lên mốc son chói lọi trong dòng chảy lịch sử dân tộc, đồng thời làm “chấn động địa cầu”, tác động mạnh đến phong trào đầu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Nhân kỷ niệm 66 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2020), xin trân trọng giới thiệu bài viết “Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 – Sự kiện mang giá trị và tầm vóc thời đại” của Đại tá Trần Tiến Hoạt, nguyên Phó Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

Trận quyết chiến chiến lược

Đến năm 1953, sau 8 năm trở lại xâm lược Đông Dương, dù đã huy động tiềm lực kinh tế, quân sự đến mức cao nhưng thực dân Pháp vẫn không đạt được mục đích cơ bản đề ra là tiêu diệt chính phủ cách mạng và lực lượng kháng chiến, thiết lập lại nền cai trị trên toàn Đông Dương như trước năm 1945. Trái lại, chúng phải chịu những tổn thất nặng nề: bị thiệt hại 390.000 quân, vùng chiếm đóng thu hẹp, mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán lực lượng ngày càng sâu sắc…

Mặt khác, những khó khăn về kinh tế, tài chính và phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân trong nước ngày càng dâng cao đẩy chính phủ Pháp rơi vào cuộc khủng hoảng chính trị mới. Lợi dụng tình thế này, đế quốc Mỹ tăng cường can thiệp vào Đông Dương, tích cực viện trợ cho Pháp kéo dài và mở rộng cuộc chiến nhằm phục vụ cho chiến lược toàn cầu phản cách mạng.

Tháng 5/1953, chính phủ Pháp cử tướng Nava – người được đánh giá là “một nhà chiến lược văn võ kiêm toàn” sang làm tổng chỉ huy quân viễn chinh ở Đông Dương với hy vọng sớm giành thắng lợi quân sự quyết định, tìm “lối thoát danh dự” dứt điểm cuộc chiến tranh. Sau một thời gian tìm hiểu tình hình chiến trường, tháng 7/1953, tướng Nava đề ra kế hoạch quân sự mới ở Đông Dương (còn gọi Kế hoạch Nava), gồm hai bước.

Bước 1 (Thu Đông năm 1953 và Xuân năm 1954): giữ thế phòng ngự chiến lược ở chiến trường miền Bắc, tránh giao chiến với chủ lực đối phương; tiến công chiến lược ở chiến trường phía nam, đánh chiếm các căn cứ kháng chiến, trước hết là vùng tự do Liên khu 5 và Khu 9 của cách mạng; đồng thời ra sức bắt lính mở rộng ngụy quân, tập trung xây dựng khối chủ lực cơ động mạnh.

Bước 2 (từ Thu Đông năm 1954): dồn lực lượng ra chiến trường miền Bắc, thực hiện các đòn tiến công chiến lược, tiêu diệt quân chủ lực đối phương để giành thắng lợi quyết định, buộc chính phủ kháng chiến phải đầu hàng, hoặc chấp nhận đàm phán kết thúc chiến tranh theo những điều kiện do Pháp đặt ra.

Cả thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều đánh giá kế hoạch Nava là “hoàn hảo, phù hợp”, sẽ mang đến thắng lợi trong vòng 18 tháng!

Thực hiện kế hoạch quân sự mới đề ra, thực dân Pháp mở nhiều cuộc hành quân đánh phá, càn quét bình định, ra sức bắt lính; đồng thời đưa thêm nhiều đơn vị quân viễn chinh vào Đông Dương. Chỉ sau một thời gian ngắn, địch đã củng cố, xây dựng được 84 tiểu đoàn cơ động chiến lược, trong đó tập trung 44 tiểu đoàn ở đồng bằng Bắc Bộ.

Về phía ta, cuối tháng 9/1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp bàn, đề ra chủ trương chiến lược cho hoạt động quân sự Đông Xuân 1953 – 1954: Sử dụng một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng địch tương đối yếu, có nhiều sơ hở, đồng thời tranh thủ cơ hội tiêu diệt địch ở những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do của ta; trong lúc đó, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường sau lưng địch, tích cực tiến hành mọi sự chuẩn bị cần thiết trong nhân dân và bộ đội địa phương, dân quân du kích các vùng tự do để cho chủ lực rảnh tay làm nhiệm vụ. Phương châm, nguyên tắc chỉ đạo tác chiến chiến lược là: tích cực, chủ động, cơ động và linh hoạt; đánh ăn chắc, tiến ăn chắc, chắc thắng thì đánh cho kì thắng, không chắc thắng thì kiên quyết không đánh.

Chấp hành chủ trương chiến lược đã đề ra, quân dân Việt Nam phối hợp chặt chẽ cùng với quân dân hai nước bạn Lào và Campuchia mở các cuộc tiến công trên khắp chiến trường Đông Dương buộc Pháp phải phân tán lực lượng đối phó. Khối chủ lực cơ động của địch từ chỗ tập trung chủ yếu ở Đồng bằng Bắc Bộ, chỉ sau một thời gian ngắn, chính thức “bị xé nát” thành 5 mảnh, đứng chôn chân trên 5 khu vực (Đồng bằng Bắc Bộ, Tây Bắc, Trung Lào, Tây Nguyên, Thượng Lào) mà hầu như không thể hỗ trợ được cho nhau.

Phối hợp với đòn tiến công của bộ đội chủ lực, ở chiến trường sau lực địch, ta đẩy mạnh chiến tranh du kích nhằm bảo vệ căn cứ kháng chiến, chia cắt giao thông, tiến công diệt thêm đồn bốt, căn cứ hậu cần, uy hiếp hệ thống phòng tuyến bên ngoài của địch… Sự phối hợp chiến đấu nhịp nhàng, rộng khắp đã đẩy quân Pháp lún sâu vào thế bị động. Kế hoạch Nava bước đầu bị phá sản.

Tại mặt trận Tây Bắc, từ tháng 11/1953, trước sự tiến công của quân ta, bộ chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương quyết định điều quân xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh. Trong toan tính của tướng Nava, Điện Biên Phủ giữ vị trí chiến lược quan trọng nhằm bảo vệ Tây Bắc, Thượng Lào. Mặt khác, nơi đây là thung lũng phì nhiêu (dài 18 km, rộng 6 – 8 km), giàu có nhất vùng Tây Bắc. Không gian và địa thế đó cho phép xây dựng một tập đoàn cứ điểm mạnh nhằm thu hút và đánh bại chủ lực đối phương.

Đến đầu tháng 3/1954, quân địch tập trung tại Điện Biên Phủ lên đến 16.200 tên, gồm những đơn vị bộ binh, pháo binh, công binh, xe tăng, không quân thuộc loại tinh nhuệ nhất ở Đông Dương; được bố trí thành hệ thống phòng ngự mạnh, gồm 49 cứ điểm, chia thành 3 phân khu. Cả Pháp và Mỹ đều đánh giá Điện Biên Phủ là “pháo đài không thể công phá”, công khai thách thức đối phương tiến công.

Về phía ta, sau khi phân tích kỹ tình hình mọi mặt, nhất là so sánh tương quan lực lượng địch – ta, Trung ương Đảng và Bộ chỉ huy tối cao đã quyết tâm mở chiến dịch tiến công Điện Biên Phủ – đòn quyết chiến chiến lược nhằm kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đại tướng Võ Nguyên Giáp được giao trọng trách Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch.

Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng!”, cả nước dồn sức cho chiến trường Điện Biên Phủ. Lực lượng tham gia chiến đấu lên đến 55.000 quân, gồm 3 đại đoàn bộ binh (308, 312, 316), Trung đoàn bộ binh 57 (Đại đoàn 304), Đại đoàn công binh – pháo binh 351. Trên 260.000 dân công và 27.400 tấn gạo được huy động để cung cấp cho chiến dịch. Hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp cùng bộ đội công binh ngày đêm mở đường ra mặt trận dưới bom đạn địch, nên sau một thời gian ngắn, hàng ngàn km đường được xây dựng, sửa chữa. Công tác chuẩn bị các mặt trên vượt ra ngoài mọi dự đoán, tạo bất ngờ lớn đối với cả Pháp và Mỹ.

Ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tiến công, mở màn chiến dịch. Sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng mãnh, vượt qua muôn vàn gian khổ, “gan không núng, chí không mòn”, chiều ngày 7/5/1954, bộ đội ta đã tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, bắt sống tướng chỉ huy De Castries, kết thúc thắng lợi trận quyết chiến chiến lược.

Ý nghĩa lịch sử trọng đại

Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 của quân dân Việt Nam đã đập tan những cố gắng quân sự cao nhất của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, buộc chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Geneva (7/1954) công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ ba nước Đông Dương, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ kéo dài 9 năm (1945 – 1954). Đồng thời, chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp kéo dài hàng thế kỷ, mở ra bước phát triển mới cho cách mạng Việt Nam, Lào, Campuchia.

Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 đập tan một mắt xích quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ, mở đầu cho sự sụp đổ trên phạm vi toàn thế giới; giáng đòn nặng nề đầu tiên vào dã tâm xâm lược của chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Nhà sử học Pháp Jules Roy sau này đã thừa nhận, xét trên phạm vi thế giới “Điện Biên Phủ thất thủ gây nỗi kinh hoàng khủng khiếp. Đó là một trong những thảm bại lớn nhất của phương Tây, báo trước sự sụp đổ của các đế quốc thuộc địa và sự cáo chung của một nền cộng hòa. Tiếng sấm Điện Biên Phủ vẫn hãy còn vang vọng”.

Cũng từ đây, “tiếng sấm Điện Biên Phủ” có sức cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa đấu tranh giành độc lập, nhất là các nước châu Phi, châu Mỹ la-tinh; đồng thời góp phần làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác – Lênin thời đại ngày nay: Một dân tộc bị áp bức, nhưng nếu quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, có đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, biết phát huy sức mạnh chiến tranh nhân dân, sức mạnh thời đại thì hoàn toàn có khả năng đánh bại những đội quân xâm lược hung bạo. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”.

Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 để lại cho cách mạng Việt Nam những bài học – kinh nghiệm rất quý báu: giữ vững và tăng cường phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở chủ trương, đường lối đúng đắn, kịp thời nắm bắt thời cơ, chớp thời cơ, chỉ đạo chiến lược nhạy bén, sắc sảo nhằm tập trung sức mạnh cao độ cả nước để giành thắng lợi quyết định; thực hiện tốt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, biết dựa vào dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; phát huy thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, không ngừng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng lớn mạnh, đặc biệt là bộ đội chủ lực để sẵn sàng thực hiện tốt nhiệm vụ, nhất là những nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, những trận quyết chiến; không ngừng chăm lo, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp công – nông làm nền tảng, tích cực đấu tranh vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xây dựng tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và đều hướng đến mục tiêu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội. Những bài học – kinh nghiệm ấy vẫn vẹn nguyên giá trị, tiếp tục được Đảng, Nhà nước ta chắt lọc, vận dụng sáng tạo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Những Bộ Phim Làm ‘Sống Lại’ Chiến Dịch Điện Biên Phủ

Đây là bộ phim chiến tranh dạng bán tài liệu của đạo diễn Bạch Diệp, ra mắt lần đầu năm 1994 nhân kỷ niệm 40 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954 – 07/5/1994).

Hai nhân vật chính trong phim là Phương (Trần Lực), một tiểu đoàn trưởng bộ đội chủ lực và Tấm (NSƯT Thu Hà), cô nữ dân quân kiêm y tá xinh đẹp luôn hết lòng vì bộ đội. Phương và Tấm là hàng xóm với nhau từ nhỏ, hai người gặp lại nhau khi cùng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Khi ấy đơn vị của Phương có nhiệm vụ tiêu diệt Cứ điểm 206- cứ điểm bảo vệ sân bay Mường Thanh.

Trong những ngày cuối cùng của chiến dịch, khi chỉ huy cuộc chiếm lĩnh Cứ điểm 206 Phương bị trọng thương và được đưa đến bệnh viện quân y nơi Tấm làm việc, ở đây Phương được Tấm – người luôn thầm yêu anh hết lòng chăm sóc. Khi vết thương đã lành, Phương tạm biệt Tấm để trở lại đơn vị, cuộc chia tay của họ diễn ra ở một cánh rừng nở đầy hoa ban đỏ. Nhưng cuối cùng, đến ngày Cứ điểm bị đập tan, khi các đoàn quân hành trở về, mặc cho Tấm chạy khắp cánh đồng Mường Thanh nhưng Phương đã không còn trở về.

Bên cạnh câu chuyện tình yêu buồn của Phương và Tấm, bộ phim cũng khiến khán giả rơi nước mắt với cảnh một đơn vị khi ra đi còn nguyên quân số mà chỉ qua một đêm đã hy sinh gần hết, hay cảnh anh thương binh bị thương ở đầu đang gào thét xung phong rồi bỗng ngoan như đứa trẻ con ngồi chơi bắn bi với Tấm.

“Hoa ban đỏ” khắc họa một cách nhẹ nhàng mà sâu sắc nhưng hy sinh, mất mát và đau thương của con người trong chiến tranh nhưng trên hết là ý chí kiên cường, bất khuất quyết chiến tới cùng của quân và dân ta trong trận đánh lịch sử này.

Kí ức Điện Biên

Đây là bộ phim truyện nhựa thứ sáu của đạo diễn Đỗ Minh Tuấn, do Hãng phim truyện Việt Nam thực hiện và được nhà nước cấp kinh phí 13 tỷ đồng (khoảng một triệu USD theo thời giá), một kinh phí cao so với các phim cùng thời, thậm chí những cảnh cuối của bộ phim còn được quay ở Paris để kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2004). Theo dự kiến ban đầu, bộ phim mang tên “Người hàng binh” theo kịch bản của Nguyễn Thị Hồng Ngát và Đỗ Minh Tuấn, về sau phim được đổi tên thành “Ký ức Điện Biên”.

“Ký ức Điện Biên” được tái hiện qua trí nhớ của Bạo (Phạm Quang Ánh), một lính vệ quốc đoàn trong chiến dịch Điện Biên Phủ và Bernard khi họ gặp lại nhau. Trong quá khứ, Bernard là một trung sĩ thuộc đơn vị Huguette 1 trực tiếp bảo vệ sân bay Mường Thanh nhưng vì quá chán ghét chiến tranh và không chịu nổi việc chứng kiến cảnh đồng đội bị cưa chân mà không có thuốc mê, Bernard đầu hàng Việt Minh để bảo toàn mạng sống của mình. Khi ấy Bạo là một chiến sĩ trong đơn vị bộ đội, anh được lệnh dẫn Bernard về hậu phương để khai thác thông tin.

Dọc đường đi, Bernard bị thương trong một trận rải bom của quân Pháp. Cả hai tình cờ gặp được Mây (Kiều Anh) là một y tá trong đơn vị dân công đang tải gạo lên chiến trường. Vì muốn nhanh chóng trở về đơn vị, Bạo đã nhờ Mây đi cùng mình để chăm sóc cho Bernard, rồi cả Bernard và Bạo cùng có cảm tình với Mây.

Tuy nhiên lúc này, khi chứng kiến sự gần gũi giữa Bernard và Mây đã khiến Bạo phải cố gắng kìm nén ghen tuông và đau khổ.Trong một đêm mưa, khi thấy vắng Bernard, nghĩ rằng Bernard bỏ trốn, Bạo đã vác súng đi tìm để giết anh. Mây đuổi theo can ngăn không được. Nhưng khi chứng kiến cảnh Bernard ngồi khóc giữa bãi xác đồng đội, Bạo như tỉnh ngộ. Chính trong khoảnh khắc bừng tỉnh tính nhân văn ấy, anh dã có Mây. Cảnh Mây ôm choàng lấy Bạo khi mũi súng hạ xuống hiện lên như bức tượng của nhân tính và tình yêu trên nền trời đêm rực rỡ những vệt pháo sáng bay lên.

“Ký ức Điện Biên” hấp dẫn khán giả ở sự đan xem giữa ký ức và hiện tại, sự kết hợp khéo léo giữa hồi tưởng quá và mong ước tương lai. Bên cạnh những hình ảnh đậm chất chiến tranh như những hào bốt, những tiếng bom đạn, cảnh chiến đấu hay những xác chiến la liệt trên thực tế chiến trường, khán giả còn thấy được khao khát hòa bình qua điệu múa cầu hồn hay hình ảnh những người lính Pháp hóa thành những con bồ câu trắng trong trí tượng tượng của Bernard.

Đường lên Điện Biên

“Đường lên Điện Biên” là bộ phim truyền hình Việt Nam dài 26 tập của đạo diễn Bùi Tuấn Dũng (kịch bản: Lê Ngọc Minh – Khuất Quang Thụy – Bùi Tuấn Dũng). Đây là bộ phim dài tập đầu tiên nói về chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Phim xoay quanh hành trình của một tiểu đoàn 5 – tiểu đoàn bộ binh chủ lực trong chuyến hành quân xuyên Tây Bắc để tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Song song với họ là chuyến đi của 500 cô gái dân công.

Không chỉ nói về những cảnh chiến đấu hay sự khốc liệt của cuộc chiến mà phim còn tập trung vào những khoảng lặng, câu chuyện tình lãng mạn là biểu trưng cho sự gắn bó giữa bộ đội và dân công hỏa tuyến.Tình yêu và lửa đạn, máu và nước mắt cùng hào khí ngàn năm hội tụ ở một thế hệ cha ông để làm nên chiến thắng thần thánh của dân tộc. Bi tráng mà không kém phần lãng mạn là mạch nguồn xuyên suốt của bộ phim.

25 tập phim đã khắc họa đậm nét tính dân dã của người dân công hỏa tuyến miền Trung và Bắc Trung bộ hòa quyện với chất hào hoa của người thị thành xưa trong bối cảnh của cuộc chiến lịch sử.

Để có những thước phim đẹp ưng ý, đoàn làm phim “Đường lên Điện Biên” đã phải di chuyển trên rất nhiều tỉnh thành trong cả nước. Từ Hà Nội đến Điện Biên, Sơn La, Yên Bái… với thời gian khá gấp rút để kịp thời lên sóng vào đúng dịp kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2014).

Điện Biên Phủ – Cuộc chiến giữa hổ và voi

Bộ phim được thực hiện bởi đạo diễn Daniel Roussel, từng là phóng viên thường trú của tờ báo cánh tả Pháp L’Humanite (Nhân đạo) tại Việt Nam trong giai đoạn 1980 – 1986, trước khi trở thành nhà làm phim. Ông từng nhiều lần được gặp và phỏng vấn Đại tướng Võ Nguyên Giáp và làm nên “Cuộc chiến giữa hổ và voi”, bộ phim tài liệu nói về trận chiến lừng lẫy năm 1954. Sau đó bộ phim được Đài Truyền hình Việt Nam mua bản quyền phát sóng năm 2009, nhân dịp kỷ niệm 55 năm chiến thắng Điện Biên Phủ.

Cuối năm 1953, Pháp sa lầy vào trên chiến trường Đông Dương. Để tìm giải pháp đàm phán ưu thế, Henri Navarre được bổ nhiệm làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương. Ngày 20/11/1953, Pháp bắt đầu nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và xây dựng nơi đây thành pháo đài. Pháp tin Việt Minh với cách đánh truyền thống, khó khăn vũ khí và hậu cần, sẽ thất bại. Vì thế, ngay từ đầu năm 1954, Pháp cho máy bay rải tuyền đơn thách thức Việt Minh tấn công.

Trong phim, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói, lúc đầu, Bộ Tổng Tham mưu vạch ra kế hoạch tấn công chớp nhoáng vào đêm 25/1/1954. Tuy nhiên, do thông tin bị rò rỉ, Đại tướng dời ngày tấn công sang 5h sáng 26/1. Ngày đêm 25/1, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã suy nghĩ và đưa ra “quyết định khó khăn nhất trong đời cầm quân”, chuyển từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh”, sang “đánh chắc, tiến chắc”.

Tướng Giáp nhận định “điều quan trọng không phải là một cuộc tấn công chớp nhoáng mà là một cuộc chiến dài hơi, nghiền nát từng phần của quân địch”.

17h30 ngày 13/3/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra lệnh nổ súng mở đầu chiến dịch. Sau ba đợt tấn công, đến 17h30 ngày 7/5/1954, lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Tướng De Castries và toàn bộ Bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng.

Sau khi Pháp thất thủ ở Điện Biên Phủ, Hội nghị Geneva ngày 8/5/1954 bắt đầu bàn về vấn đề Đông Dương. Sau hội nghị, Pháp công nhận quyền tự do, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương, trong đó có Việt Nam và chấm dứt chế độ thực dân ở các nước này.

Mặc dù mang những nhan đề và hình thức truyền tải khác nhau, nhưng những bộ phim về chiến dịch chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đều đưa đến cho khán giả cái nhìn chân thực, xúc động nhất về những con người đã làm nên lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam.

Cập nhật thông tin chi tiết về Di Tích Lịch Sử Chiến Trường Điện Biên Phủ (Bổ Sung 23 Điểm Di Tích) trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!