Bạn đang xem bài viết Gia Sư Toán Hướng Dẫn Học Sinh Tiểu Học Giải Toán Có Lời Văn được cập nhật mới nhất trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Trong tất cả các môn học ở tiểu học có 2 môn quan trọng nhất chính là môn tiếng việt và môn toán. Trong đó toán học với tư cách là một môn khoa học được ứng dụng nhiều trong thế giới hiện thực, nó có hệ thống kiến thức cơ bản và phương pháp nhận thức rất cần thiết cho đời sống sinh hoạt, lao động của con người.
Giải toán có lời văn ở tiểu học là một biểu hiện năng động của trí tuệ, nó giúp các em học sinh phát triển được tư duy, linh hoạt sử dụng các kiến thức và kỹ năng đã có kết hợp với lối ngôn ngữ để hoàn thành bài giải. Do vậy nhiều em học sinh gặp không ít khó khăn khi giải các bài toán ở dạng này bởi nó chứa quá nhiều các dữ kiện mà với lứa tuổi tuổi học rất khó để nắm bắt được hết.
Vậy Toán tiểu học có tầm quan trọng như thế nào và làm sao để hướng dẫn học sinh giải bài toán có lời văn? Sau nhiều năm làm việc đội ngũ gia sư Toán Tiểu Học chúng tôi đã đúc kết ra nhiều kinh nghiệm.
Môn toán tiểu học sẽ giúp học sinh nhận biết được những mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian nhờ đó các em có phương pháp nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh từ đó biết cách hoạt động hiệu quả trong đời sống.
Nhờ môn toán cũng góp phần quan trọng trong việc rèn luyện tư duy khoa học, phương pháp suy luận để tìm cách gải quyết vấn đề. Nó cũng tạo dựng cho các em cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt sáng tạo góp phần hình thành các phẩm chất cần thiết của con người.
Ngoài ra học toán còn giúp học sinh tiểu học rèn luyện kĩ năng sống độc lập như tìm hiểu về tiền bạc, tính toán cộng trừ nhân chia,…Đây đều là những kỹ năng cơ bản để quản lý tốt các công việc, ngân sách và thời gian trong tương lai.
Học Toán giúp cải thiện khả năng tư duy của trẻ
2. Gia sư Toán hướng dẫn học sinh tiểu học giải toán có lời văn
Đây là bước đầu tiên rất quan trọng trong giải đề, gia sư Toán phải hướng dẫn học sinh đọc cẩn thận đề bài để xác định rõ ràng đâu là các dữ liệu đã cho và đâu là các dự liệu cần tìm từ đó nhận biết bài toán thuộc dạng nào.
Lúc này gia sư toán cũng nên đặt các câu hỏi cho học sinh như bài toán cho biết điều gì, có những yêu cầu như thế nào…Dù các em trả lời đúng hay không chính xác chúng ta cũng nên gạch chân ở những từ ngữ, từ khóa quan trọng giúp các em nắm chặt các vấn đề mấu chốt.
Chính là giúp học sinh tóm tắt đề bằng sơ đồ đoạn thẳng, hình vẽ, ký hiệu ngắn gọn thiết lập mối quan hệ giữa dữ liệu đã có và yêu cầu cần tìm. Lúc này gia sư Toán cần gạt bỏ những thứ yếu, lặt vặt trong đề để hướng đến thứ chính yếu nhất được biểu hiện qua hình vẽ.
Các em sẽ được hướng dẫn suy nghĩ xem:
* Để trả lời câu hỏi này cần phải biết những gì?
* Cần áp dụng phép tính nào vào đề?
* Trong phương pháp đó cái gì đã biết, cái gì còn chưa hiểu?
* Để tìm những cái chưa biết cần phải làm gì?
* Phép tính tiếp theo như thế nào?
Gia sư toán sẽ gợi ý, giúp đỡ học sinh suy luận và phân tích chủ động tìm ra phương pháp tính toán của bản thân.
Ở bước này học sinh sau khi tìm ra kết quả, Gia sư toán sẽ xuất phát từ những điều đã cho trong đề lần lượt hướng dẫn các em trình bày một bài toán bằng lời văn để tìm ra kết quả.
Nhắc nhở các em khi đã làm xong từng phép tính thì nên thử lại đáp số xem có phù hợp với đề toán không, kiểm tra lại lời giải đã viết một lần nữa xem đã đủ ý và ngắn gọn, dễ hiểu chưa. Bước này rất quan trọng tạo cho học sinh tiểu học rèn luyện tỉnh cận thẩn, tỉ mỉ ngay từ nhỏ.
Bước 5: Khai thác bài toán dành cho học sinh khá giỏi
Với những em học giỏi thì bước này sẽ giúp nâng cao kiến thức chuyên môn hơn, học sinh sẽ được gia sư gợi ý xem có những cách nào giải bài toán nữa không, từ đó rút ra được những kinh nghiệm gì, qua bài toán này để đặt ra các bài toán khác,… Các em sẽ được làm nhiều bài tập với nhiều dạng toán từ đó nhận biết được mối quan hệ xuôi ngược trong đề.
Một mảnh đất hình chữ nhật có chiều dài 35m, chiều rộng 20m. Tính chu vi mảnh đất đó?
Ví dụ: Tính chu vi hình chữ nhật
Yêu cầu học sinh đọc kỹ đề bài và trả lời: Bài toán cho biết cái gì? Bài toán yêu cầu tìm gì? Để tính được chu vi, diện tích ta cần nhớ công thức nào? Các đơn vị có gì lưu ý?
Căn cứ vào dạng toán gia sư toán cần hướng dẫn học sinh biết cách tóm tắt và trình bày theo cách của học sinh tiểu học.
Chiều dài : 35m
Chiều rộng : 20m
Muốn tìm chu vi hình chữ nhật ta cần làm như thế nào? (Lấy chiều dài cộng chiều rộng rồi nhân với 2).
Chu vi = ( chiều dài + chiều rộng ) x 2
Sau khi học sinh đã biết cách phân tích bài toán trước lúc giải một bài toán có lời văn. Gia sư toán yêu cầu học sinh tự lập sơ đồ cách giải bài toán vào giấy nháp trước khi trình bày bài toán.
Chu vi mảnh đất hình chữ nhật đó là:
(35 + 20) x 2 = 110m
* Chiều dài, chiều rộng thống nhất cùng đơn vị chưa
* Đơn vị của chu vi là gi? Có khác với đơn vị của diện tích hay không?
* Ngoài cách tính chu vi hình chữ nhật thì cách tính chu vi của một hình bất kỳ như thế nào?
* Gia sư Toán sẽ giúp học sinh nâng cao và mở rộng thêm nhiều bài toán mới.
Qua những kinh nghiệm đúc kết từ thực tế của đội ngũ gia sư Toán Tiểu Học, hi vọng có thể đem lại cho các bậc phụ huynh và thầy cô giáo tham khảo từ đó tìm ra được một phương pháp tốt phù hợp để dạy toán bằng lời văn cho học sinh tiểu học.
Quý phụ huynh cần tìm gia sư Toán Tiểu Học vui lòng liên hệ chúng tôi:
Email: suphamhanoi.edu@gmail.com.
Cơ sở 1: Số 101 Ngõ 189 Minh Khai – Hai Bà Trưng.
Cơ sở 2: Số 27 Ngõ 98 Xuân thủy – Cầu Giấy.
Hướng Dẫn Học Sinh Giải Toán Có Lời Văn
Phan Thơ Đào Hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn
Tên đề tài: Hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn ở HS tiểu học 1 – Đặt vần đề : – Môn toán là môn học có vị trí vô cùng quan trọng ở các cấp học , bậc học , ngành học, là môn học thể hiện sự tư duy , năng động, trí tuệ sáng tạo của con người . – Trong dạy học toán ở phổ thông nói chung, ở tiểu học nói riêng giải toán có một vị trí vô cùng quan trọng . + Trước hết dạy học giải toán giúp học sinh luyện tập củng cố vận dụng các kiến thức và thao tác thực hành đã học , rèn luyện kỹ năng tính toán , từng bước tập dợt vận dụng kiến thức và rèn luyện kỹ năng thực hành vào thực tiễn . + Qua việc dạy – học giải toán giáo viên có thể giúp học sinh từng bước phát triển tư duy , rèn luyện phương pgháp và kỹ năng suy luận . + Qua giải toán học sinh rèn luyện được đức tính và phong cánh làm việc của người lao động như : ý chí khắc phục khó khăn , thói quen xét đoán , tính cẩn thận , chu đáo, cụ thể là làm việc có kế hoạch, có kiểm tra kết quả cuối cùng , hình thành rèn luyện khả năng suy nghĩ độc lập , linh hoạt . Xây dựng lòng ham thích , tìm tòi sáng tạo ở mức độ khác nhau từ đơn giản đến phức tạp . – Xét riêng về góc độ giải toán có văn ở tiểu học quá trình giải toán theo 4 bước. Bước 1 : tìm hiểu kỹ đầu bài Bước 2 : lập kế hoạch giải toán. Bước 3 : Thực hiện kế hoạch giải Bước 4 : Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải . – Trong 4 bước của quá trình giải toán có văn thì bước 1 ” Tìm hiểu kỹ đầu bài ” Có vị trí vô cùng quan trọng , có thể ví như “chiếc chìa khoá ” để mở ra kho tàng tri thức , bởi lẽ có làm tốt được bước này thì các bước sau mới đi đúng hướng và đạt kết quả cao. – Mặt khác vai trò của bước 1 trong giải toán còn có một ý nghĩa khác : Rèn luyện cho học sinh năng lực tìm hiểu vấn đề , năng lực phát hiện giải quyết vấn đề .
2 – Cơ sở lí luận :
Trang
1
Phan Thơ Đào Hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn
Qua những năm giảng dạy thực tế, qua trao đổi với đồng nghiệp bản thân rút ra được một số kinh nghiệm để tăng cường sự hứng thú trong học tập cho HS, giúp các em chủ động tham gia tích cực các hoạt động học tập: a/ Thực hiện việc đổi mới trong phương pháp giảng dạy: Giáo viên phải chủ động thực hiện đổi mới cách giảng dạy, cách học của học sinh, đổi mới cách đánh giá học sinh theo tinh thần chỉ đạo của Bộ Giáo dục – Đào tạo từ đó sẽ có tác dụng tốt trong việc đưa học sinh từ vai trũ thụ động sang vai trũ chủ động trong việc tiếp thu kiến thức bài giảng. b/ Trong mỗi tiết học giáo viên cần quan tâm đến từng đối tượng HS tùy theo trỡnh độ HS, giáo viên sẽ giao những nhiệm vụ học tập vừa với sức học, tránh những yêu cầu quá dễ hoặc quá khó cho HS. c/ Dạy học theo nhúm, trỡnh độ: Một phương pháp giúp cho tất cả các HS cùng tiến bộ: Trong giảng dạy, người giáo viên luôn chú ý, quan tõm đến cách giải của từng học sinh để đưa ra các phương pháp giải tóan có lời văn phù hợp từng trỡnh độ các em. Nên tôi đó đưa ra sáng kiến kinh nghiệm: ” Hướng dẫn học sinh giải tóan có lời văn ở HS tiểu học” cho mọi người cùng đóng góp.
3 – Cơ sở thực tiễn: – Qua quan sát quá trình giải toán của học sinh tiểu học ta thấy học sinh có thể sử dụng nhiều thủ thuật dựa trên việc tái hiện các mẫu đã biết hoặc trên cơ sở vận dụng các kiến thức đã học . Tuy nhiên do sự chú ý chưa bền vững khả năng tập trung tư tưởng vào mục đích cuối cùng của bài toán còn hạn chế nên khi giải toán học sinh ít có khả năng ý thức được các thao tác kế tiếp nhau trong quá trình suy luận . – Trong quá trình giải toán có văn cũng như vậy nhất là khi thực hiện bước 1 ” tìm hiểu kỹ đầu bài ” nhiều học sinh còn gặp khó khăn và thường mắc 1 số sai lầm như: bị nhầm lẫn, ngộ nhận bởi các từ “cảm ứng” các từ này thường gợi ra các phép tính cụ thể hoặc bị lôi cuốn vào các dữ kiện , điều kiện thừa hoặc yếu tố không tường minh. – Học sinh khó phân biệt được dữ kiện và điều kiện , không xác định được nội dung yêu cầu của bài đó nên học sinh gặp khó khăn trong giải toán . – Chính vì nhận thức được vai trò quan trọng của giải toán có văn và đặc biệt là bước 1 ” tìm hiểu kỹ đầu bài”. Trong những năm qua khi trực tiếp giảng dạy các khối lớp tôi đã thực hiện tốt vấn đề này và đạt đượckết quả khả quan. Trong kinh nghiệm này tôi trình bày một số khó khăn mà học sinh tiểu học thường gặp khi giải toán có văn đặc biệt là những khó khăn gặp phải khi thực hiện bước 1″ tìm hiểu kỹ đầu bài ” và đưa ra một số giải pháp khắc phục những khó khăn đó.
4 – Nội dung nghiên cứu: Trang
2
Phan Thơ Đào Hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn
I- Những vấn đề chung Muốn giảng dạy tốt toán có văn ở tiểu học đặc biệt là thực hiện bước một” tìm hiểu kỹ đầu bài”thì người giáo viên phải nắm được vai trò của bước 1 và những công việc mà trong bước 1phải thực hiện. 1) Vai trò của bước 1″ tìm hiểu kỹ đầu bài”trong giải toán có văn. – Bước 1 là bước” tìm hiểu kỹ đầu bài” có vị trí vô cùng quan trọng, trong bước này học sinh phải đọc kỹ đầu bài xác định được yếu tố cơ bản của bài toán( dữ kiện, điều kiện và ẩn số) phải tóm tắt được bài toán. – Thực tế cho thấy học sinh tiểu học gặp nhiều khó khăn khi phân biệt các yếu tố cơ bản của bài toán, khó nhận thức được tính chất của cái đã cho, dễ nhầm cái cần tìm với cái đã cho. Nhất là không nhận thức được vai trò của câu hỏi trong bài toán, khó nhận rõ quan hệ lôgíc giữa dự kiện và ẩn số. – Nội dung bài toán ở tiểu học thường nêu ra những tình huống quen thuộc gần gũi với học sinh, trong đó các dự kiện thường là các đại lượng. khi các em tìm hiểu đầu bài toán thì các em thường bị phân tán vào nội dung cụ thể của đại lượng hơn là vào các yếu tố cần thiết cho việc diễn tả điều kiện của bài theo yêu cầu của câu hỏi. – Trong các bài toán của tiểu học, các dự kiện thường là không thừa hoặc không thiếu. Vì vậy học sinh tiểu học thường quan niệm bài toán bao giờ cũng có đáp số, vấn đề là tìm cách nào đó để có đáp số. Nhưng khi mà đề toán ra ngoài cách đó thì học sinh rất lúng túng kể cả học sinh giỏi. – Nhiều bài toán ở tiểu học chứa các từ gọi là” chìa khoá” hay từ”cảm ứng mà nội dung của nó thường gợi ra những phép tính cụ thể: Chẳng hạn” thêm” gợi các phép tính cộng’ bớt”gợi phép tính trừ..nhiều trường hợp do học sinh không đọc kỹ đầu bài mà các em bị ám ảnh bởi tác dụng “cảm ứng”đó và chọn sai phép tính. – Học sinh tiểu học thường xử lý các điều kiện và dữ kiện theo trình tự đưa ra trong đầu bài toán hoặc theo tiến trình diễn biến của sự việc. Nếu đảo ngược các các sự việc hay trình bày các dữ kiện khác với thứ tự thì nhiều học sinh còn gặp khó khăn. – Nhiều bài toán có dữ kiện đưa ra không tường minh cũng là một vấn đề khó đối với học sinh tiểu học. Tóm lại : Bước 1 trong giải toán có văn có vị trí vô cùng quan trọng , bởi vì chỉ khi xác định được nội dung , yêu cầu của đầu bài thì học sinh mới dễ dàng tìm ra cách giải . Như vậy có thực hiện được tốt được bước 1 thì các bước sau mới đi đúng hướng và đạt kết quả cao.
Trang
3
Phan Thơ Đào Hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn
2 . Những công việc của bước 1. – Việc 1. đọc kỹ đầu bài : trước hết muốn hiểu đầu bài học sinh cần hiểu rõ cách diễn đạt bằng lời văn của bài toán . Nắm được ý nghĩa và nội dung của đầu bài . Giáo viên có thể yêu cầu học sinh nhắc lại nội dung của bài toán ( không cần thuộc lòng ) – Việc 2 : Xác định yếu tố cơ bản của bài toán + Dữ kiện : là cái đã cho , đã biết trong đầu bài , thường được biểu diễn bằng danh số . + ẩn số : là cái chưa biết cần tìm ( là các câu hỏi của bài toán ) + Điều kiện : Là quan hệ giữa dữ kiện và ẩn số . – Việc 3 : Tóm tắt đề toán . tóm tắt bài toán phải đạt các yêu cầu sau : + Ngắn gọn cô đọng + Thể hiện được mối quan hệ logic giữa dữ kiện , ẩn số và điều kiện . + Gợi ý được cách giải Ví dụ : Một hình thang có độ dài 2 đáy lần lượt là 110 mét và 90,2 mét. Chiều cao bằng trung bình cộng 2 đáy. Tính diện tích thửa ruộng đó ( Bài 3 trang 94 SGK toán 5 ) Dữ kiện :Hai đáy là : 110 mét và 90,2 mét ẩn số
: Tính diện tích thửa ruộng.
Điều kiện : Chiều cao bằng trung bình cộng 2 đáy. II/ Những khó khăn thường gặp của học sinh tiểu học khi thực hiện bước 1 và những giải pháp khắc phục khó khăn . 1. Khó khăn thứ nhất là : Bài toán có chứa các từ ” Cảm ứng ” hay từ ” chìa khoá ” Thì học sinh thường lầm lẫn ,ngộ nhận bởi vì các từ này thường gợi ra phép tính cụ thể như :” Gấp lên ” hoặc ” giảm đi ” bao nhiêu lần gợi ra phép tính nhân hoặc chia tương ứng chúng tôi không đọc kỹ đầu bài nên một số học sinh đã lầm lẫn ,ngộ nhận khi gặp phải các từ cảm ứng đó dẫn đến việc chọn sai phép tính và kết quả sai Ví dụ : Bao thứ nhất đựng 10 kg gạo như vậy đựng gấp đôi bao thứ hai . Hỏi bao thứ hai đựng bao nhiêu kg gạo ? Dữ kiện : Bao thứ nhất đựng 10 kg
Trang
4
Phan Thơ Đào Hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn
Điều kiện : Bao thứ nhất đựng gấp đôi bao thứ hai ẩn số :Tính số kg gạo bao thứ hai . Do đầu bài có chức từ ” Cảm ứng ‘ ” gấp đôi ” nó gợi cho học sinh làm phép tính nhân . Do nhầm lẫn ,ngộ nhận bởi từ ” cảm ứng ” đó nên một số học sinh xác định sai và giải sai bài toán . Thực chất từ ” gấp đôi ” này phải làm phép chia . – Biện pháp khắc phục khó khăn trên . + Yêu cầu học sinh đọc kỹ đầu bài ,diễn tả đầu bài theo ý kiến của mình . + Cần hướng dẫn học sinh xử lý và phát hiện các dữ kện và điều kiện của bài toán .thấy được mối quan hệ giữa cái đã cho và cái cần tìm . + Nhận thức một cách đúng đắn các từ “cảm ứng” đó. + Lật đi lật lại vấn đề cho học sinh hiểu mối quan hệ giữa cái đã cho và cái cần tìm ( bao nào nhiều hơn ? bao nào ít hơn ? …) ,từ đó gợi được cách giải cho học sinh . 2. Khó khăn thứ hai ; Khi đầu bài có chứa các yếu tố không tường minh thì học sinh thường không phát hiện ra yếu tố không tuờng minh đó .Do vậy việc xác định nội dung yêu cầu của đầu bài không chính xác ,không đủ dẫn đến giải sai . Ví dụ :Cả hai hộp có 12,8 kg chè . Hếu chuyển hộp thứ nhất sang hộp thứ hai 0,4 kh chè thì số kg chè đựng trong mỗi hộp sẽ bằng nhau . hỏi trong mỗi hộp lúc đầu có bao nhiêu kg chè . Dữ kiện : Hai hộp có 12,8 kg chè Điều kiện : Chuyển 0,4 kg từ hộp 1 sang hộp 2 thì hai hộp có số kg chè bằng nhau ẩn số : Tìm số chè ở mỗi hộp lúc đầu ở bài này phần lớn học sinh không đọc kỹ đầu bài xác định sai điều kiện của đầu bài . Yếu tố không tường minh ở đây là khi chuyển 0,4 kg chè từ hộp 1 sang hộp 2 thì hai hộp có số kg chè bằng nhau . Phần đông học sinh xác định đúng dạng cơ bản của bài toán là loại toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu . Nhưng xác định sai hiệu , đa số học sinh xác định 0,4 kg là hiệu . Nhưng ở bài này hiệu là 0,8 chứ không phải là 0,4 kg . do đó học sinh giải sai bài toán . – Biện pháp khắc phục khó khăn + yêu cầu học sinh đọc kỹ đầu bài , nêu lại đầu bài theo ý hiểu của mình . + Phân biệt được dữ kiện và điều kiện của đầu bài
Trang
5
Phan Thơ Đào Hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn
+ Hướng dẫn học sinh phát hiện ra yếu tố không tường minh trong đầu bài . 3/ Khó khăn thứ ba Khi trong đầu bài có chứa các dữ kiện thừa thì học sinh không biết cách loại bỏ mà thường bị lôi cuốn vào các diều kiện thừa đó . Do đó dẫn đến việc tìm hiểu đầu bài gặp nhiều khó khăn . Ví dụ : Tâm cho Đào 5 cái kẹo . Đào cho Mai 3 cái , như vậy mỗi người có 9 cái kẹo . Trước khi cho cả ba người có bao nhiêu cái kẹo Điều kiện : Ba bạn Tâm , Đào , Mai mỗi ban có 9 cái Dữ kiện : Tâm cho Đào 5 cái ,Đào cho Mai 3 cái ẩn số : Cả ba bạn trước khi cho có mấy cái kẹo Bài này học sinh không phát hiện ra điều kiện cơ bản của bài toán là sau khi chop mỗi bạn có 9 cái . Do đầu bài có chứa cái dữ kiện thừa . Học sinh quan niệm bài toán bao giờ cũng có đầy đủ dữ kiên và điều kiện không thừa ,không thiếu lên nhiều học sinh lúng túng và giải sai bài toán . ở bài này chỉ cần quan tâm tới điều kiện ” Cả ba bạn mỗi người có 9 cái kẹo ” Vậy trước khi cho cả ba người có số kẹo: 9 x 3 = 27 cái – Biên pháp : Khắc phục khó khăn . + Yêu cầu học sinh cần đọc kĩ đầu bài + Xác định được nội dung ,yêu cầu của đầu bài với những cái đã cho và những cái cần tìm . + Biết cách loại bỏ các dữ kiện thừa không cần thiết nếu học sinh không biết thì giáo viên phải gợi ý bằng câu hỏi . + cần hướng dẫn học sinh tập chung vào cái cần tìm tránh phân tán vào các dự kiên thừa + Hướng dẫn học sinh cách sàng lọc và tóm tắt đề toán một cách cô đọng và gợi được cách giải cho học sinh . 4. Khó khăn thứ tư : Bài toán mà đưa ra các đơn vị đo không thống nhất thì nhiều học sinh còn cảm thấy lúng túng khó khăn trong việc xác định các yếu tố cơ bản của bài toán . Ví dụ : Tùng và Toàn chạy thi trên cùng một đoạn đường . Toàn chạy hết 11 phút . Tùng chạy hết giờ 1/10 giờ . Hỏi ai chạy nhanh hơn.
Trang
6
Phan Thơ Đào Hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn
Trang
7
Phan Thơ Đào Hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn
Trang
8
Phan Thơ Đào Hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn
+ Hướng dẫn học sinh tóm tắt đề toán một cách chính xác, ngắn gọn được cách giải của bài toán.
5 – Kết quả nghiên cứu: Qua thực tế áp dụng vào giảng dạy trong nhiều năm tôi nhận thấy khi giáo viên phát hiện được những khó khăn mà học sinh thường gặp khi giải toán có văn và đưa ra cánh khắc phục như trên thì chất lượng giải toán có văn được nâng nên rõ rệt. Đặc biệt là học sinh tự tin hơn khi giải toán có văn . Tôi đã tiến hành làm một số trắc nghiệm để đối chứng kết quả giữa việc sử dụng kinh nghiệm này và dạy thông thường. Kết quả cụ thể như sau: Tôi cũng tiến hành khảo sát 10 học sinh theo 2 đề. +) Đề 1: Thực hiện phép tính tính giá trị của biểu thức, tìm x + Đề 2: Các bài toán có văn. * Khảo sát đầu năm: Tổng số học sinh là 10 Đề
Trang
9
Phan Thơ Đào Hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn
Đó là những ý kiến của riêng tôi đã đúc kết được qua thực tế giảng dạy những năm qua. Những ý kiến đó có thể còn thiếu, cách giải quyết còn hạn chế mong thầy cô tham khảo góp ý để việc giải toán có văn đạt kết quả cao hơn.
An Bình, ngày 16 tháng 03 năm 2012 Người viết
Trang
10
Phương Pháp Hướng Dẫn Học Sinh Lớp 5 Giải Toán Có Lời Văn
Chương trình giải toán tiểu học, việc giải bài toán có lời văn chiếm một vị trí rất quan trọng. Việc hình thành các khái niệm toán học, các quy tắc đều được giảng dạy thông qua giải toán có lời văn.
Ví dụ như: Muốn hình thành phép nhân một số thập phân cho một số tự nhiên. Trước hết ta phải đưa ra bài toán như SGK / 55: Hình tam giác ABC có ba cạnh dài bằng nhau, mỗi cạnh dài 1,2m. Hỏi chu vi của hình tam giác đó bằng bao nhiêu mét?
Học sinh phải giải bài toán bằng cách lấy 1,2 x 3 = ? (m). Từ đó chúng ta đã hình thành được cho học sinh quy tắc nhân. Đồng thời, thông qua giải toán cũng giúp giáo viên nắm được mức độ kiến thức, kĩ năng của từng học sinh, từ đó giúp giáo viên có hướng điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Việc hướng dẫn học sinh cả lớp giải đúng được bài toán đã khó nhưng việc giải đúng, lời giải hay, tạo ra nhiều cách giải lại càng khó hơn. Đa số giáo viên chỉ hướng dẫn học sinh giải đúng chứ chưa chú trọng đến việc giải hay và giải nhiều cách. Khi học sinh trình bày, giáo viên chữa bài thì chưa chú ý đến sáng tạo của học sinh trong khi đặt lời giải, vì học sinh đặt lời giải không giống nhau nhưng vẫn thể hiện đúng ý. Chính vì sợ mất nhiều thời gian nên nhiều giáo viên chưa khai thác hết các cách giải khác nhau hoặc chưa ra thêm bài tập đồng dạng và nâng cao hơn để học sinh tự rèn luyện.
Giải toán giúp học sinh vận dụng vào thực tế cuộc sống. Ví dụ như những bài toán về tính số tiền, tính số viên gạch, tính diện tích, chu vi thửa ruộng, mảnh đất,
PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 5 GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN ************** I-Đặt vấn đề: Chương trình giải toán tiểu học, việc giải bài toán có lời văn chiếm một vị trí rất quan trọng. Việc hình thành các khái niệm toán học, các quy tắc đều được giảng dạy thông qua giải toán có lời văn. Ví dụ như: Muốn hình thành phép nhân một số thập phân cho một số tự nhiên. Trước hết ta phải đưa ra bài toán như SGK / 55: Hình tam giác ABC có ba cạnh dài bằng nhau, mỗi cạnh dài 1,2m. Hỏi chu vi của hình tam giác đó bằng bao nhiêu mét? Học sinh phải giải bài toán bằng cách lấy 1,2 x 3 = ? (m). Từ đó chúng ta đã hình thành được cho học sinh quy tắc nhân. Đồng thời, thông qua giải toán cũng giúp giáo viên nắm được mức độ kiến thức, kĩ năng của từng học sinh, từ đó giúp giáo viên có hướng điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Việc hướng dẫn học sinh cả lớp giải đúng được bài toán đã khó nhưng việc giải đúng, lời giải hay, tạo ra nhiều cách giải lại càng khó hơn. Đa số giáo viên chỉ hướng dẫn học sinh giải đúng chứ chưa chú trọng đến việc giải hay và giải nhiều cách. Khi học sinh trình bày, giáo viên chữa bài thì chưa chú ý đến sáng tạo của học sinh trong khi đặt lời giải, vì học sinh đặt lời giải không giống nhau nhưng vẫn thể hiện đúng ý. Chính vì sợ mất nhiều thời gian nên nhiều giáo viên chưa khai thác hết các cách giải khác nhau hoặc chưa ra thêm bài tập đồng dạng và nâng cao hơn để học sinh tự rèn luyện. Giải toán giúp học sinh vận dụng vào thực tế cuộc sống. Ví dụ như những bài toán về tính số tiền, tính số viên gạch, tính diện tích, chu vi thửa ruộng, mảnh đất,... Chính vì thế việc giải toán có lời văn của học sinh còn nhiều hạn chế. Để giúp học sinh giải tốt dạng toán này trước tiên mỗi giáo viên phải thực sự yêu nghề, phải có sự đầu tư kĩ lưỡng từ phương pháp hướng dẫn cho đến việc hướng dẫn giải nhiều cách và ra bài tập nâng cao hơn. Từ những điều trên tôi thấy đây là một vấn đề không chỉ là nỗi lo của học sinh, của giáo viên mà là sự quan tâm sát sao của phụ huynh, của ngành. Khi giảng dạy lớp 5, tôi nghĩ bất kỳ một giáo viên nào thực sự tâm huyết với nghề đều phải dày công nghiên cứu làm cách nào, bằng biện pháp nào để nâng cao kĩ năng giải toán cho học sinh lớp 5 nhằm góp phần nâng cao tỉ lệ học sinh khá, giỏi của lớp mình. Vì những lí do trên mà tôi chọn đề tài: Phương pháp hướng dẫn học sinh lớp 5 giải toán có lời văn II-Nội dung - Biện pháp thực hiện: 1/-Nguyên nhân làm cho việc giải toán của học sinh lớp 5 còn hạn chế: *Do đặc điểm tâm lí: -Nhiều năm liền tiếp xúc với học sinh lớp 5, qua trao đổi với các em về môn Toán, đa số các em đều cảm thấy chán ngán đối với những bài toán giải. Dù biết rằng những dạng toán điển hình các em đã được học lặp đi lặp lại nhưng khi tiếp xúc với toán giải thì các em bị ức chế, ngán ngại. -Đặc thù của toán giải là mang tính khô khan dễ nhàm chán. Nhưng nếu giáo viên xác định, tìm ra phương pháp dạy học thích hợp sẽ gây hứng thú cho học sinh nhưng nếu chúng ta không có phương pháp hướng dẫn phù hợp học sinh sẽ không khắc sâu kiến thức và không giải được dẫn đến nhàm chán, không phát huy được tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh, dẫn đến các em bị ức chế khi giải toán. -Khi lên lớp 5, các em có sự thay đổi tâm lí rõ rệt. Các em dạn dĩ hơn, quan sát, nhận xét các sự vật tỉ mỉ hơn. Nhưng các em cũng rất hay mặc cảm, tự ti khi chưa hiểu rõ vấn đề hoặc thắc mắc về một vấn đề nào đó các em chưa mạnh dạn trao đổi với bạn hay thầy (cô) vì sợ bạn cười. Ngoài ra các em còn chịu sự chi phối của các phương tiện thông tin hiện đại mà các em tiếp xúc hằng ngày. *Do hoàn cảnh gia đình: -Trường thuộc địa bàn xã, nằm cách xa thị xã, thị trấn nên đa số học sinh thuộc gia đình lao động nghèo, phải vất vả kiếm sống nên bố mẹ không quan tâm đến việc học của con em (nhất là học sinh yếu), dẫn đến các em chưa có ý thức học tốt. Phụ huynh bị hạn chế về trình độ nên khi học sinh học ở nhà gặp lúc không hiểu thì không biết hỏi ai. Hoặc phụ huynh không kiểm tra việc học ở nhà, quan tâm đến việc làm bài tập ở nhà của học sinh. Từ đó kiến thức ngày càng mai mọt, mau quên, các em rơi vào tình trạng chán nản. *Do chưa nắm vững dạng toán và phương pháp giải toán: một phần giáo viên đứng lớp chưa nắm hết các dạng toán điển hình ở tiểu học và phương pháp giải đặc trưng cho từng dạng toán. Chưa phát huy hết tác dụng của đồ dùng dạy học và các đồ dùng dạy học sáng tạo để kích thích tinh thần học tập của học sinh. Qua kết quả giảng dạy môn Toán của những năm học trước do lớp tôi chủ nhiệm cho thấy chất lượng dạy học Toán chưa cao (nhất là học sinh khá, giỏi). Năm học Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu Ghi chú SL TL SL TL SL TL SL TL 2006 - 2007 26 5 19,3% 8 30,7% 11 42,3% 2 7,7% Cả năm 2007 - 2008 32 7 21,9% 10 31,2% 13 40,6% 2 6,3% Cả năm Trước thực trạng trên, tôi luôn tự hỏi mình phải làm sao để nâng tỉ lệ học sinh khá, giỏi môn toán. 2/-Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, đặc điểm kiến thức từng học sinh: Đầu năm học, khi nhận bàn giao, tôi tìm hiểu tình hình học tập của lớp qua trao đổi với giáo viên lớp 4 tôi chú trọng những học sinh có năng khiếu học Toán và những học sinh yếu Toán ghi lại danh sách. -Khi thực hiện giảng dạy một, hai tuần đầu ôn tập lại kiến thức và kiểm tra chất lượng đầu năm. Qua đó, tôi tách ra học sinh giỏi, học sinh khá, học sinh trung bình và học sinh yếu môn Toán. Qua một, hai tuần đầu thực tế đứng lớp tôi luôn tạo điều kiện thăm hỏi hoàn cảnh gia đình của từng đối tượng về hoàn cảnh kinh tế, về địa bàn cư trú, về lí lịch,... Qua đó, tôi có thể nhận biết vì sao một số em lại học giỏi Toán hoặc yếu Toán. 3/-Lập kế hoạch hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn: Muốn hướng dẫn học sinh giải được bài toán có lời văn thì trước hết giáo viên cần nắm vững các dạng toán cơ bản mà học sinh đã được học ở tiểu học và những phương pháp để giải các dạng toán đó, nhất là các dạng Toán ở lớp 4+ 5. Từ đó, đề xuất nhiều phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh. Các dạng toán cơ bản đó là: -Tìm số trung bình cộng. -Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó. -Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó. -Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ của hai số đó. -Bài toán về tỉ số phần trăm. -Bài toán về chuyển động đều. -Bài toán có nội dung hình học (chu vi, diện tích, thể tích). ............................................................... ............................................................... ................................................................. Một số phương pháp giải toán có lời văn ở Tiểu học thường là: - Phương pháp dùng sơ đồ đoạn thẳng. -Phương pháp chia tỉ lệ. -Phương pháp thay thế. -Phương pháp thử. -Phương pháp tính ngược từ cuối. -Phương pháp lựa chọn. ............................................. .............................................. ................................................ Sau khi nhận thấy bản thân đã nắm vững được các dạng toán điển hình và các phương pháp giải toán tôi tiến hành làm một số công việc như sau: a/-Gặp gỡ phụ huynh đầu năm (phiên họp lần 1) trao đổi vấn đề học tập của học sinh: -Giáo viên nêu khó khăn, thuận lợi, tình hình học tập của học sinh qua một, hai tuần thực học. -Thông qua chất lượng kiểm tra đầu năm. Từ đó, kiến nghị phụ huynh quan tâm hơn, theo dõi, nhắc nhở con em làm bài tập về nhà đầy đủ, thường xuyên hơn, cần sự hỗ trợ của gia đình nhiều hơn. b/-Phân nhóm học sinh theo trình độ: -Qua danh sách học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu đã lập sau khi kiểm tra chất lượng đầu năm tôi chia học sinh của lớp thành 3 nhóm: +Nhóm 1: Những học sinh giỏi Toán, có kiến thức cơ bản vững chắc, đa số các em thuộc thành phần gia đình khá, có điều kiện học tập tốt, được cha mẹ quan tâm hoặc gia đình nghèo nhưng có ý chí học tập tốt nên học giỏi. +Nhóm 2: Những học sinh khá Toán cũng nắm kiến thức khá vững nhưng do thiếu cẩn thận. +Nhóm 3: Những học sinh thuộc dạng trung bình, yếu Toán, đa số các em bị mất căn bản do: phụ huynh không quan tâm, gia đình lao động nghèo, nghỉ học thường xuyên để giúp đỡ gia đình hoặc lười học. 4/-Tổ chức các biện pháp: Sau khi phân nhóm học tập theo trình độ tôi tiến hành một số biện pháp nâng cao kĩ năng giải toán của học sinh qua các công việc cụ thể: a/-Sinh hoạt với từng nhóm đối tượng và giao việc cụ thể: +Đối với nhóm 1: Tôi tiếp xúc với từng em và nắm được những điểm mạnh của từng em. Tôi ra các bài tập nâng cao hơn và yêu cầu các em giải bằng nhiều cách. Khuyến khích các em hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình giải toán (nhất là học sinh yếu). Phân các em gần nhà lập thành một nhóm nhỏ để giúp đỡ nhau học tập. +Đối với nhóm 2: Tiếp xúc với các em qua 1, 2 tuần đầu, tôi nắm được những hạn chế thiếu sót của từng em. Từ đó, tôi luôn khuyến khích các em cần phải lưu ý, cẩn thận hơn. Cần học tập, trao đổi thêm cách giải toán với bạn, giải toán và hỗ trợ những em chưa biết giải toán hoặc giải chậm. +Đối với nhóm 3: Đây là những đối tượng học sinh cần được quan tâm nhiều hơn. Tôi lên kế hoạch phụ đạo 1 buổi / tuần, trong những giờ phụ đạo đó tôi củng cố lại cho học sinh nắm từng cách giải cho từng dạng toán, ra bài tập cụ thể theo dạng toán đó (đặc biệt là số nhỏ, dễ tính) để các em chủ yếu là biết cách giải, giải được, rồi từ từ ra bài tập khó hơn một chút. Ngoài ra tôi còn khuyến khích các em là phải mạnh dạn trao đổi khi họp nhóm và nên thắc mắc với giáo viên khi chưa hiểu được gì khi giải toán. Tôi còn thông tin cho các em biết sắp tới phải học nhóm nhỏ ở nhà và phải cố gắng làm bài tập nhiều hơn. -Đối với học sinh cá biệt như em Nguyễn Trí Hiếu: đầu óc hay quên, hay em Nguyễn Hữu Phong: nhà nghèo, ba mẹ làm ăn xa, sống với ông nội già yếu. Tôi luôn tạo điều kiện cho các em thực hành giải toán nhiều trên bảng lớp (nhất là những bài tập đơn giản). Bằng tình cảm chân thành, yêu thương, lo lắng cho các em từ đó tôi thấy các em thích làm bài tập hơn, tôi thường ra thêm bài tập đồng dạng cho học sinh tự giải ở nhà. b/-Giao việc cụ thể và tiến hành thực hiện: *Giao việc cụ thể cho học sinh: Tôi tiến hành lập các nhóm nhỏ (5 - 6 học sinh). Mỗi nhóm như thế bao gồm đủ các đối tượng học sinh: học sinh giỏi, học sinh khá, học sinh trung bình, học sinh yếu. Tôi dặn dò các em cần phải có sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong khi học nhóm; học sinh giỏi phải làm gương, giảng giải cách làm cho các bạn học yếu chưa biết giải toán. Học sinh khá cố gắng khắc phục những thiếu sót, tính toán cẩn thận hơn. Các học sinh trung bình, yếu chưa biết giải toán phải chăm chú nghe hướng dẫn của bạn, làm bài tập nhiều hơn. Tôi đưa vào tiêu chí thi đua giữa các tổ. Mỗi ngày, sau buổi học tôi ra bài tập về nhà. Đầu buổi học hôm sau tôi tổ chức chữa bài, sau khi chữa bài xong, các em đổi vở cho nhau kiểm tra; Mỗi em làm đúng thì được ghi một điểm 10 cho tổ. Qua hai năm thực hiện tôi rất tâm đắc về điều này. Chỉ cần 1, 2 bài tập mỗi ngày, các em sẽ giải được bài dễ, dần dần giải bài khó hơn, nhiều cách hơn. Cứ như thế cuối mỗi buổi học là các em yêu cầu tôi ra bài tập về nhà. *Tiến hành thực hiện: Khi giảng dạy trên lớp tôi cố gắng nghiên cứu kĩ từng bài toán giải và đề ra phương pháp hướng dẫn, nội dung câu hỏi chính xác, phù hợp từng đối tượng học sinh. Khi học sinh chưa trả lời được tôi ra câu hỏi gợi ý, giảng giải; sau đó cho các em lặp lại ý đúng nhiều lần để khắc sâu kiến thức. Tôi cải tiến phương pháp hướng dẫn giải toán bằng nhiều cách. *Sử dụng phương pháp theo 4 bước: Để có thể giải được một bài toán, thường phải tuân theo một đường lối chung gồm bốn bước như sau: -Bước 1: Đọc kĩ đề toán (ít nhất là hai lần), để nắm vững nội dung, ý nghĩa của bài toán: xác định đâu là cái đã cho, đâu là cái phải tìm. Cần hết sức lưu ý tìm hiểu ý nghĩa cho các từ quan trọng trong đề toán. Chớ vội bắt tay vào tính toán khi chưa đọc kĩ đề. -Bước 2: Tóm tắt đề toán bằng sơ đồ, hình vẽ hoặc ngôn ngữ ngắn gọn. Thông qua đó, thiết lập mối quan hệ giữa những cái đã cho và những cái phải tìm. Ví dụ 1: Với bài toán "Lớp em có 46 bạn. Số bạn trai nhiều hơn số bạn gái 6 bạn. Hỏi số bạn trai và số bạn gái của lớp em? Ta có thể tóm tắt như sau: ? Bạn gái: 6 46 bạn Bạn trai: ? Ví dụ 2: Với bài toán "3 thùng mật ong đựng được 27lít. Hỏi có 5 thùng như vậy thì đựng được bao nhiêu lít?". Ta có thể tóm tắt theo một vài cách như sau: *Cách 1: 3 thùng : 27 lít 5 thùng : ? lít *Cách 2: 27 l ? l v.v... Ví dụ 3: Với bài toán "Cứ 13,5m vải thì may được 9 cái áo đồng phục cho học sinh. Biết rằng lớp 5A có 45 học sinh, lớp 5B có ít hơn 5A là 3 học sinh. Hỏi cần phải dùng bao nhiêu mét vải để may áo đồng phục cho cả hai lớp?", ta có thể tóm tắt như sau: Dùng phương pháp sơ đồ đoạn thẳng 13,5m 9 áo 45hs 5A 3hs ? hs ? m 5B -Bước 3: Phân tích bài toán để tìm cách giải Thường thường, ta xuất phát từ cái phải tìm, tức là từ câu hỏi của bài toán mà suy luận ngược lên cho tới những điều đã cho để tìm cách giải (phương pháp này là phân tích). Như vậy, ta thường phải tự hỏi mình: +Bài toán hỏi gì? +Muốn trả lời được câu hỏi đó thì phải biết cái gì? +Muốn biết cái đó thì phải thực hiện phép tính nào? Ví dụ: Với bài toán nêu trong "Ví dụ 3" ở trên, có thể phân tích để tìm cách giải như sau: +Bài toán hỏi gì? (Số mét vải cần dùng cho cả hai lớp) +Muốn tìm số vải đó ta phải làm như thế nào? (Lấy tổng số học sinh của cả hai lớp nhân với số vải để may 1 áo) +Muốn tìm tổng số học sinh của hai lớp ta làm thế nào? (Lấy số học sinh lớp 5A cộng lớp 5B) +Số học sinh lớp 5A biết chưa? (Biết rồi, 45) +Số học sinh lớp 5B biết chưa? (Chưa biết). Có thể tính bằng cách nào? (Lấy học sinh lớp 5A trừ đi 3) +Bấy giờ, muốn tìm số vải để may 1 áo ta làm thế nào? (Lấy số vải đã dùng để may 9 áo chia cho 9; tức là 13,5m : 9) Quá trình phân tích trên thường được lần lượt ghi lại vắn tắt thành sơ đồ như sau: Tổng số vải = Tổng số HS x Số vải để may 1 áo 5A + 5B (Số vải để may 9 áo) : 9 45 5A - 3 13,5m : 9 Đi ngược lại sơ đồ trên (từ dưới lên) ta có trình tự giải bài toán: Đây là phương pháp tổng hợp, giúp học sinh trình bày lời giải của bài toán (1) Tính số học sinh lớp 5B (Số học sinh lớp 5A - 3) (2) Tính tổng số học sinh hai lớp (3) Tính số vải để may 1 áo (13,5m : 9) (4) Tính tổng số vải cần dùng (Kết quả bước 2 nhân với bước 3) -Bước 4: Thực hiện chính xác các phép tính và trình bày bài giải +Thực hiện các phép tính theo trình tự đã được thiết lập để tìm đáp số. Mỗi khi thực hiện phép tính xong cần thử lại xem đã tính đúng chưa. Giải xong, phải thử xem đáp số có phù hợp với các điều kiện của bài toán không? +Trình bày bài giải của bài toán: Ví dụ, với bài toán nêu ở trên, ta trình bày bài giải như sau: Giải: Số vải để may một áo là: 13,5 : 9 = 1,5 (m) Số học sinh lớp 5B là: 45 - 3 = 42 (học sinh) Số học sinh cả hai lớp là: 45 + 42 = 87 (học sinh) Tổng số vải cần dùng là: 1,5 x 87 = 130,5 (m) Đáp số: 130,5m *Sử dụng phương pháp lựa chọn: Ví dụ: Cho 1 số có hai chữ số, trong đó chữ số hàng đơn vị gấp đôi chữ số hàng chục. Nếu lấy số đó cộng với 7 thì được số có hai chữ số giống nhau. Hãy tìm số đã cho. Giải Số có 2 chữ số, trong đó chữ số hàng đơn vị gấp đôi chữ số hàng chục. Vậy số đó có thể là: 12 ; 24 ; 36 ; 48 Xét lại điều kiện của bài toán: Nếu lấy số đó cộng với 7 thì được số có hai chữ số giống nhau. Vậy ta có: 12 + 7 = 19 ( loại ) 24 + 7 = 31 ( loại ) 36 + 7 = 42 ( loại ) 48 + 7 = 55 ( nhận ) Vậy số cần tìm là : 55 *Sử dụng hình ảnh trực quan, thực tế: Đối với những bài toán mang tính suy luận tôi thường sử dụng hình ảnh trực quan, thực tế để mang đến cho các em sự hứng thú khi giải toán. Ví dụ như: Bài 2 trang 21 / SGK: Một gia đình gồm 3 người (bố, mẹ và một con). Bình quân thu nhập hằng tháng là 800000 đồng mỗi người. Nếu gia đình đó có thêm một con nữa mà tổng thu nhập của gia đình không thay đổi thì bình quân thu nhập hằng tháng của mỗi người bị giảm đi bao nhiêu tiền? -Tôi sẽ mời 3 học sinh đứng trước lớp đóng vai bố, mẹ và con. Mỗi bạn cầm 1 tờ phiếu ghi số 800000 đồng, tôi hỏi: +Lúc đầu gia đình có mấy người? (Có 3 người) +Bình quân hằng tháng mỗi người thu nhập được bao nhiêu tiền? (800000 đồng) +Đề bài cho biết có thêm mấy người nữa? (1 người) +Vậy gia đình đó có tất cả mấy người? (4 người); Giáo viên gọi thêm 1 học sinh nữa bước vào nhóm +Đề bài cho biết số tiền thu nhập hằng tháng của mỗi người có tăng thêm không? (không) +Nhiệm vụ của các em sẽ tìm gì? (Số tiền thu nhập hằng tháng của mỗi người sẽ bị giảm đi bao nhiêu?) *Sử dụng đồ dùng dạy học linh hoạt, sáng tạo: Đây là một yếu tố vô cùng quan trọng. Ngoài những đồ dùng dạy học sẵn có, tôi cùng với đồng nghiệp bàn luận hoặc sưu tầm thêm để gây sự chú ý cho học sinh Ví dụ 1: Khi dạy bài 1 / 31 SGK: "Để lát nền một căn phòng hình chữ nhật, người ta dùng loại gạch men hình vuông có cạnh 30cm. Hỏi cần bao nhiêu viên gạch để lát nền căn phòng đó, biết rằng căn phòng đó có chiều rộng 6m, chiều dài 9m?" (Diện tích phần mạch vữa không đáng kể) Tôi mang theo viên gạch hình vuông cạnh 30cm để các em quan sát. Sau khi cho học sinh tìm hiểu đề, tôi hỏi: +Bài toán cho biết gì? (Người ta dùng loại gạch men hình vuông cạnh 30cm để lát kín căn phòng có chiều rộng 6m, chiều dài 9m) +Bài toán hỏi gì? (Cần bao nhiêu viên gạch để lát kín căn phòng?) +Để tìm được số viên gạch để lát kín căn phòng, ta cần biết gì? (Diện tích căn phòng và diện tích một viên gạch) -Giáo viên giới thiệu viên gạch: Đây là viên gạch hoa hình vuông có số đo một cạnh là 30cm (Giáo viên dùng thước đo kiểm tra lại cho cả lớp quan sát) +Khi biết được diện tích căn phòng và diện tích một viên gạch ta tìm số viên gạch bằng cách nào? (Lấy diện tích căn phòng chia cho diện tích một viên gạch) -Giáo viên cần giới thiệu cho học sinh hiểu phần mạch vữa không đáng kể nghĩa là diện tích chỗ tiếp xúc giữa 2 viên gạch khi lát nền căn phòng không tính. Kết quả là các em nhớ lâu dạng toán này và ham thích học. Ví dụ 2: Khi dạy bài 3 / 60 SGK: Trên bảng đồ tỉ lệ 1 : 1000000, quãng đường từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Phan Thiết đo được 19,8cm. Hỏi độ dài thực của quãng đường từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Phan Thiết là bao nhiêu ki - lô - mét? Tôi sử dụng bản đồ phân môn địa lý tạo sự hứng thú, say mê cho học sinh khi tiếp xúc dạng toán này. Có thể cho học sinh đo đạc trực tiếp trên bản đồ giúp các em vận dụng hiểu biết vào thực tế. *Sử dụng các hoạt động ôn tập hỗ trợ: Thường xuyên liên hệ với phụ huynh học sinh để cùng với gia đình đôn đốc, nhắc nhở các em học tập tốt hơn, làm bài tập đầy đủ hơn. Vì hằng ngày, cuối mỗi buổi học tôi thường ra bài tập về nhà dạng nâng cao cho học sinh làm thêm. Khi gặp bài toán khó, ngoài khả năng hỗ trợ của những phụ huynh, phụ huynh đến hỏi tôi nhiệt tình giải thích từ đó phụ huynh rất hài lòng về cách làm của tôi và đôn đốc các em học tập tốt hơn. Điều quan trọng nhất đối với môn Toán là ôn luyện kiến thức một cách thường xuyên. Đây là yếu tố quan trọng quyết định kết quả học tập của các em. Tôi thường tổ chức ôn tập, củng cố lại kiến thức mà các em hay quên và hạn chế vào chiều thứ sáu hàng tuần, đầu giờ ôn bài và 5 - 10 phút sau mỗi buổi học. 5/-Tác dụng của sáng kiến kinh nghiệm: Qua nhiều năm áp dụng biện pháp nêu trên tôi nhận thấy chất lượng dạy học môn Toán nâng lên đáng khích lệ (nhất là tỉ lệ học sinh khá, giỏi), học sinh trung bình yếu tiến bộ rõ rệt. Các em nắm chắc các dạng toán và giải chính xác hơn. BiĐề Tài Hướng Dẫn Học Sinh Lớp 2 Giải Bài Toán Có Lời Văn
Hiện nay trong các trường đã và đang vận dụng phương pháp dạy học đổi mới, đó là cách dạy hướng vào người học hay còn gọi là “Lấy HS làm trung tâm” người thầy là người hướng dẫn chỉ đạo trong quá trình chiến lĩnh kiến thức của HS, với các môn học nói chung và môn Toán nói riêng. Để vận dụng tốt được cách dạy học mới này đòi hỏi người GV phải tâm huyết với nghề, phải dày công nghiên cứu tìm ra giải pháp thích hợp với đối tượng HS mình dạy.
Qua xem xét và nghiên cứu thực tế dạy học toán có lời văn của khối lớp 2 trường Tiểu học số 1 Kim Sơn. Tôi thấy chỉ được khoảng 40% HS biết giải toán, còn 60% học sinh rất lơ mơ, lúng túng khi HS phải đứng trước một bài toán có lời giải.
Dạy học toán có lời văn là một bộ phận kiến thức toán học hoàn chỉnh cho HS tiểu học. Mỗi bài toán có lời văn là một tình huống có vấn đề buộc các em phải tư duy, suy luận và phân tích tổng hợp để giải quyết vấn đề.
Nếu các em làm tốt được bài toán thì những vấn đề mà các em gặp phải trong cuộc sống sẽ được các em vận dụng toán học để tìm ra giải pháp giải quyết tình huống. Bởi vậy, việc dạy học giải toán cần được xác định rõ ràng ngay từ những lớp đầu cấp về mục đính yêu cầu, nội dung và phương pháp dạy học.
Qua giảng dạy thực tế của lớp 2 vài năm trước (năm học 2006-2007) tôi thấy HS gặp rất nhiều khó khăn về tính toán, tư duy, kĩ năng trong việc giải bài toán có lời văn. Chính vì những lý do trên bản thân tôi chọn kinh nghiệm: “Hướng dẫn học sinh lớp 2 giải bài toán có lời văn”.
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay trong các trường đã và đang vận dụng phương pháp dạy học đổi mới, đó là cách dạy hướng vào người học hay còn gọi là "Lấy HS làm trung tâm" người thầy là người hướng dẫn chỉ đạo trong quá trình chiến lĩnh kiến thức của HS, với các môn học nói chung và môn Toán nói riêng. Để vận dụng tốt được cách dạy học mới này đòi hỏi người GV phải tâm huyết với nghề, phải dày công nghiên cứu tìm ra giải pháp thích hợp với đối tượng HS mình dạy. Qua xem xét và nghiên cứu thực tế dạy học toán có lời văn của khối lớp 2 trường Tiểu học số 1 Kim Sơn. Tôi thấy chỉ được khoảng 40% HS biết giải toán, còn 60% học sinh rất lơ mơ, lúng túng khi HS phải đứng trước một bài toán có lời giải. Dạy học toán có lời văn là một bộ phận kiến thức toán học hoàn chỉnh cho HS tiểu học. Mỗi bài toán có lời văn là một tình huống có vấn đề buộc các em phải tư duy, suy luận và phân tích tổng hợp để giải quyết vấn đề. Nếu các em làm tốt được bài toán thì những vấn đề mà các em gặp phải trong cuộc sống sẽ được các em vận dụng toán học để tìm ra giải pháp giải quyết tình huống. Bởi vậy, việc dạy học giải toán cần được xác định rõ ràng ngay từ những lớp đầu cấp về mục đính yêu cầu, nội dung và phương pháp dạy học. Qua giảng dạy thực tế của lớp 2 vài năm trước (năm học 2006-2007) tôi thấy HS gặp rất nhiều khó khăn về tính toán, tư duy, kĩ năng trong việc giải bài toán có lời văn. Chính vì những lý do trên bản thân tôi chọn kinh nghiệm: "Hướng dẫn học sinh lớp 2 giải bài toán có lời văn". PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. I. Đặc điểm tình hình nhà trường, lớp 1. Khái quát chung Trường Tiểu học Sủng Trà, nằm cách trung tâm huyện lị khoảng 8km. Đây là trường vùng cao đặc biệt khó khăn, gồm 9 điểm trường: chủ yếu là dân tộc Mông. 2. Thuận lợi, khó khăn * Thuận lợi : - Phần đông các em có nhà gần trường, tỉ lệ đi học chuyên cần cao. - Ngôn ngữ của các em khi nói tiếng phổ thông là tương đối tốt. - Điều kiện cơ sở vật chất của trường lớp tương đối khang trang, lớp cón đủ điều kiện cho các em học tập. * Khó khăn: - Hầu hết phụ huynh học sinh làm nghề nông đa số gia đình các em có hoàn cảnh khó khăn nên chưa có điều kiện quan tâm đến học sinh, chưa coi trọng việc học mà chỉ cho rằng học để biết chữ, chưa dành nhiều thời gian cho các em học tập. - Đa số nhà các em chưa có góc học tập riêng, nếu có thì cũng chưa đúng quy cách, nhiều em phải nằm, ngồi trên giường khi học bài, viết bài. - Phần đa các em học tập trên lớp, về nhà các em không có thời gian học bài và phụ huynh học sinh không đôn đốc các em tự học, thậm trí nhiều phụ huynh không biết chữ nển khó khăn cho việc dạy bảo các em. - Các em là dân tộc nên ảnh hưởng nhiều của tiếng mẹ đẻ. - Nhận thức của các em còn chậm. II. Thực trạng của vấn đề Việc dạy toán ở tiểu học mà đặc biệt là ở lớp 2 được hình thành chủ yếu là thực hành, luyện tập thường xuyên được ôn tập, củng cố, phát triển vận dụng trong học tập và trong đời sống, song trong thực tế dự giờ, thăm lớp, tôi thấy giáo viên dạy cho HS giải toán có lời văn thường theo các hình thức sau: + HS đọc đề bài 1, 2 lần. + GV tóm tắt lên bảng. + Sử dụng một vài câu hỏi gợi ý để trả lời, sau đó GV gọi 1HS khá lên bảng giải bài toán. - HS đọc đề bài 1, 2 lần. GV đặt câu hỏi: - Bài toán cho biết gì? - Ta phải đi tìm cái gì? - Ta phải làm phép tính gì? Em nào xung phong lên bảng làm bài? - HS lên bảng làm bài xong GV kiểm tra, sửa chữa hoặc bổ sung. Tôi thấy 2 hình thức vừa nêu ở trên chính là nguyên nhân dẫn đến kết quả HS giải toán có lời văn đạt chất lượng thấp trong nhà trường. Chính cách dạy trên đã hạn chế khả năng tư duy của HS, không phát huy được năng lực cho các em trong việc giải toán. Vì vậy nên chất lượng của một số lớp đặc biệt là khối lớp 2 chỉ chiến 40% HS biết giải toán, trong đó giải thành thạo chỉ chiến từ 5- 8%. Phần lớn khi các em đứng trước một bài toán các em chỉ đọc sơ sài 1, 2 lần đề bài rồi áp dụng các thao tác theo bài thầy giảng dạy để giải. Ví dụ: Bài toán 4 trong SGK Toán 2 (trang 33) Mẹ mua vè 26kg vừa gạo nếp vừa gạo tẻ, trong đó có 16kg gạo tẻ. Hỏi mẹ mua về bao nhiêu ki-lô-gam gạo nếp? Bài giải: 26 - 16 = 10(kg) Đáp số: 10 kg. - Nguyên nhân là các em không hiểu hết các tự quan trọng trong bài toán để phân tích, suy luận tìm ra cách giải. Bởi vì toán có lời văn thì các em phải hiểu lời văn thì mới làm phép tính đúng. Khi làm phép tính thì phải hiểu lời giải này trả lời cho câu hỏi nào, lý do chính đó đã làm cho các em tính sai. - Bên cạnh đó còn cộng thêm vốn Tiếng Việt của các em còn hạn chế. Vì vậy khi gặp bài toán hợp các em chưa biết tư duy phân tích để tìm lời giải rồi đưa về một bài toán hợp giải hoàn chỉnh yêu cầu của đề bài. Những lý do và nguyên nhân trên khiến các em rất lo sợ khi học toán đặc biệt là những bài toán có lời văn. - Qua đề tài, này tôi hi vọng giúp cho GV đang giảng dạy ở lớp 2 trường Tiểu học vùng cao của huyện Mèo Vạc sử dụng có hiệu quả phương pháp giải toán có lời văn với nội dung thực tế gần gũi với cuộc sống HS, trong đó có các loại toán sau: 1. Bài toán về nhiều hơn. 2. Bài toán vè ít hơn. 3. Tìm một số hạng trong một tổng. * Một số bài toán nâng cao lớp 2. - Biết trình bày bài giải đầy đủ các câu trả lời giải, các phép tính và đáp án. III. Biện pháp khắc phục Để khắc phục được tình trạng giải toán trên tôi tôi tiến hành theo 5 bước: * Bước 1. Tìm hiểu nội dung bài toán: - Thông qua việc đọc bài toán, HS phải đọc kĩ để hiểu rõ bài toán cho biết gì? cho biết điều kiện gì? Bài toán hỏi cái gì? Khi đọc bài toán phải hiểu thật rõ một số từ, thuật ngữ quan trọng chỉ rõ tình huống quan trọng chỉ rõ tình huống toán học được diễn đạt theo ngôn ngữ thông thường sau đó HS "thuật lại" vắn tắt bài toán mà không cần đọc lại nguyên văn bài, đó là bước 1. * Bước 2. Tóm tắt bài toán: Là bước quan trọng để thể hiện phần trọng tâm và toát lên những cái phải tìm của đề bài. * Bước 3. Tìm tòi cách giải bài toán: Gắn liền với việc phân tích các giữ liệu, điều kiện và câu hỏi của bài toán nhằm xác lập mối liên hrệ giữa chúng và tìm được các phép tính số học thích hợp. - Minh hoạ bài toán bằng tóm tắt đề toán, dùng sơ đồ hoặc dùng mẫu thích hợp, tranh, ảnh... - Lập kế hoạch giải bài toán, có hai hình thức thể hiện: Đi từ câu hỏi của bài toán đến các số liệu, hoặc đi từ số liệu đến các câu hỏi của bài toán. Ví dụ: Lan hái được 24 bông hoa, Liên hái được nhiều hơn Lan 16 bông hoa. Hỏi Liên hái được bao nhiêu bông hoa? - Xuất phát của bài toán đến dữ kiện: + Bài toán hỏi gì? (Liên có bao nhiêu bông hoa?) + Có thể biết ngay chưa? + Vì sao? + Có thể biết được số hoa Liên hái được nhiều hơn Lan chưa? Vì sao? + Vậy việc đầu tiên sẽ phải tìm cái gì? Bằng cách nào? + Sau đó làm gì nữa? Bằng cách nào? Đã trả lời câu hỏi của bài toán chưa? - Xuất phát tự dữ kiện đến câu hỏi của bài toán. - Kết quả cuối cùng có phải là đáp số của bài toán không? * Bước 4. Thực hiện cách giải: Bài giải: Liên hái được số bông hoa là: 24 + 16 = 40 (bông hoa) Đáp số: 40 bông hoa. * Bước 5. Cách giải bài toán: - Phân tích cách giải đúng hay sai, sai ở chỗ nào để sửa chữa. Nếu kết quả đúng thì ghi đáp số. C. Hướng dẫn HS lớp 2 giải bài toán có lời văn, thông qua ví dụ sau: Hoà có 4 bông hoa, bình có nhiều hơn Hoà 2 bông hoa. Hỏi Bình có mấy bông hoa? - Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán: + Bài toán này thuộc dạng toán nào? + Đề bài cho chúng ta biết cái gì? + GV hướng dẫn cho HS tìm hiểu bước 2. Tóm tắt đề toán: Biểu thị số bông hoa bằng sơ đồ đoạn thẳng. 4 bông hoa Hoà: 2 bông hoa Bình: ? bông hoa + Tìm cách giải bài toán: Nhìn vào tóm tắt cho thấy Bình có nhiều hơn Hoà 2 bông hoa. - Muốn tìm số bông hoa của Bình thì ta phải tìm thế nào? * Thực hiện cách giải: 4 + 2 = 6 (bông) Đáp số: 6 bông hoa. * Ví dụ: vườn nhà Mai có 17 cây cam, vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7 cây cam. Hỏi vườn nhà Hoa có mấy cây cam? (Bài tập 1, Tr. 30- SGK Toán 2) 17 cây 17 cây - Hướng dẫn HS tóm tắt: Vên nhµ Mai: Vên nhµ Hoa: 7 cây ? cây Bài giải: Vườn nhà Hoa có số cây cam là: 17 - 7 = 10 (cây) Đáp số: 10 cây cam. * Kiểm tra bài giải: Qua mấy ví dụ trên em nào biết: Muốn làm một bài toán có lời văn thì ta thực hiện mấy bước? (Thực hiện 5 bước) - HS xây dựng thành ghi nhớ. - GV ghi lên bảng từng bước sau đó gọi 1,2 HS đọc to cho cả lớp nghe. Giáo viên thực nghiệm TIẾT 24: BÀI TOÁN VỀ NHIỀU HƠN I. MỤC TIÊU: - Kiến thức: Giúp HS Hiểu khái niệm "nhiều hơn" và biết cách giải bài toán nhiều hơn. - Kĩ năng: Giúp HS biết cách trình bày và giải bài toán có lời văn về nhiều hơn. - Thái độ: Yêu thích học toán và có ý thức giải bài toán có lời văn. II. ĐỒ DÙNG DẠY HỌC: 7 qủa cam có nam châm (hoặc hình vẽ trong SGK) III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHỦ YẾU: 1. Bài mới. a. Kiểm tra bài cũ Gọi 2 HS lên bảng thực hiện các yêu cầu sau: HS1: Đặt tính và tính: 38 + 15; 78 + 9; HS2: Giải bài toán theo tóm tắt. Vải xanh: 28 dm. Vải đỏ: 25 dm. Cả hai mảnh: ...dm? Nhận xét và cho điểm HS. b. Giới thiệu bài: Trong giờ toán hôn nay chúng ta sẽ được học và làm quen với dạng toán có lời văn mới, đó là: Bài toán về nhiều hơn. 2. Phát triển bài. Hoạt động 1: Giới thiệu về bài toán nhiều hơn: * Mục tiêu: Giúp HS nhận biết được cách giải bài toán về nhiều hơn. * Cách tiến hành: Yêu cầu cả lớp tập trung theo dõi lên bảng. - Cài 5 quả cam trên bảng và nói: Cành trên có 5 quả cam. - Cài 5 quả cam xuống dưới và nói: Cành dưới có 2 quả cam thêm 2 quả cam nữa (gài thêm 2 quả) - Hãy so sánh số cam 2 cành với nhau. Cành dưới có nhiều hơn bao nhiêu quả (nối 5 quả trên tương ứng với 5 quả dưới, còn thừa 2 quả). + Nêu bài toán: Cành trên có 5 quả cam, cành dưới có nhiều hơn cành trên 2 quả cam. Hỏi cành dưới có bao nhiêu quả cam? - Muốn biết cành dưới có bao nhiêu quả cam ta làm như thế nào? - Hãy đọc cho thầy câu trả lời của bài toán. Yêu cầu HS làm bài ra giấy nháp, 1HS làm bài trên bảng lớp. Tóm tắt: Cành trên: 5 quả. Cành dưới nhiều hơn cành trên: 2 quả. Cành dưới:... quả? Chỉnh sửa cho các em nếu các em còn sai. Hoạt động 2: Luyện tập thực hành. Bài 1: *Mục tiêu: Củng cố cách giải về bài toán nhiều hơn. * Cách tiến hành: - Gợi ý 1HS đọc đề bài. - Gợi ý 1HS tóm tắt. - Bài toán cho biết gì? - Bài toán hỏi gì? - Muốn biết Bình có bao nhiêu bông hoa ta làm như thế nào? - Trước khi làm phép tính ta phải trả lời như thế nào? - Yêu cầu HS làm bài vào vở sau đó chỉnh sửa, nhận xét. Bài 2: *Mục tiêu: Củng cố giải bài toán về nhiều hơn. * Cách tiến hành: Yêu cầu HS đọc đề bài, đọc tóm tắt. - Bài toán hỏi gì? Để giải bài toán này, chúng ta làm phép tính gì? - Yêu cầu HS tự giải bài toán. Bài 3: *Mục tiêu: Tiếp tục củng cố về giải bài toán về nhiều hơn. * Cách tiến hành: Yêu cầu HS đọc đề bài. Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì? - Để biết Đào cao bao nhiêu cm ta làm như thế nào? Vì sao? - Yêu cầu HS làm bài vào vở, 1 HS lên bảng làm bài. Tóm tắt: Mận cao : 95cm. Đào cao hơn Mận : 3cm. Đào cao :...cm? 4. Củng cố- dặn dò: Hôm nay chúng ta vừa học dạng toán gì? - Chúng ta giải các bài toán nhiều hơn trong bài bằng phép tính gì? - Tổng kết tiết học, tuyên dương một số em có tinh thần học tốt. - Cành dưới có nhiều cam hơn cành trên (3HS trả lời). - Nhiều hơn 2 quả (3 HS trả lời). - Thực hiện phép cộng: 5 + 2. - Số quả cam cành dưới có là Cành dưới có số quả cam là - Làm bài: Bài giải: Số quả cam cành dưới có là: 5 + 2 = 7 (quả) Đáp số: 7 quả cam. - Đọc đề bài - Đọc tóm tắt - Hoà có 4 bông hoa, Bình có nhiều hơn Hoà 2 bông hoa. - Bình có bao nhiêu bông hoa. Ta thực hiện phép tính 4 + 2 - Số bông hoa của Bình là Bình có số bông hoa là - HS làm bài. - HS đọc đề bài tóm tắt. - Bài toán hỏi số bi của Bảo. - Bảo có nhiều hơn Nam 5 viên bi. Nam có 10 viên bi. - Phép cộng 10 + 5 Bài giải: Bạn Bảo có số bi là: 10 + 5 = 15 (viên) Đáp số: 15 viên bi. - HS đọc đề bài. Mận cao 95 cm. Đào cao hơn Mận 3cm. - Đào cao bao nhiêu cm? - Thực hiện phép cộng 95 + 3 vì "cao hơn" cũng giống như "nhiều hơn". - HS làm bài. Bài giải: Bạn Đào cao là: 95 + 3 = 98 (cm) Đáp số: 98 cm. - Bài toán về nhiều hơn. - Phép cộng IV. Kết quả đạt được Qua việc áp dụng phương pháp trên vào việc hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn ở lớp 2 của trường Tiểu học Sủng Trà, tôi thấy kết quả đã có những chuyển biến nhất định. Học sinh biết giải toán có lời văn đã được nâng cao. Kết quả cụ thể đạt được qua các năm: Năm 2006-2007 tôi áp dụng phương pháp trên vào lớp 2 do trực tiếp tôi giảng dạy, kết quả đạt được đến cuối năm học là: Năm học Lớp Tổng số học sinh Học sinh biết giải toán có lời văn Giải toán có lời văn thành thạo 2013-2014 1 15 5/15 6/15 2014-2015 2 15 8/15 7/15 2015-2016 3 30 12/30 10/30 PHẦN III. KẾT LUẬN 1. Kết luận Qua quá trình nghiên cứu đề tài, bản thân tôi đã học hỏi được rất nhiều điều bổ ích và lý thú cho nghiệp vụ chuyên môn, đồng thời đáp ứng được yêu cầu đặt ra của thực tế giảng dạy học môn toán ở tiểu học. - Quá trình dạy học môn toán ở tiểu học và riêng lớp 2 có hai hoạt động rõ ràng: + Hoạt động dạy của thầy (giữ vai trò chỉ đạo) + Hoạt động học của trò (giữ vai trò tích cực, chủ động). Hai hoạt động này phải diễn ra đồng bộ, tạo mối quan hệ mật thiết để đạt kết quả cao. - Trong đó, dạy giải toán có lời văn là một bộ phận quan trọng của chương trình toán tiểu học. Nó được kết hợp chặt chẽ với nội dung của các kiến thức về số học, các yếu tố đại số, các yếu tố hình học. Dạy giải toán là một hoạt động khó khăn, phức tạp về mặt trí tuệ, do đó khi giải toán có lời văn đòi hỏi HS phải phát huy trí tuệ một cách tích cực linh hoạt, chủ động sáng tạo, đồng thời qua việc giải toán của HS mà GV dễ dàng phát hiện ra những nhược điểm và ưu điểm để giúp các em khắc phục và phát huy. Dạy toán góp phần quan trọng vào việc rèn luyện năng lực tư duy và những đức tính tốt đẹp của người lao động mới. 2. Kiến nghị Với khả năng còn nhiều hạn chế và rất ít kinh nghiệm nghiên cứu, tôi xin nêu lên vài ý kiến nhỏ của bản thân nhằm giúp GV tham khảo khi hướng dẫn HS lớp 2 giải toán có lời văn. Kính mong các thầy cô giáo, mong các bạn đồng nghiệp góp ý bổ sung thêm cho để tài này hoàn thiện hơn. Xin trân trọng cảm ơn! Sủng Trà, ngày tháng năm 2016 Người viết sáng kiến Hà Thị Hương Đánh giá, nhận xét của hội đồng giám khảoCập nhật thông tin chi tiết về Gia Sư Toán Hướng Dẫn Học Sinh Tiểu Học Giải Toán Có Lời Văn trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!