Bạn đang xem bài viết Giải Vbt Ngữ Văn 8 Bài Cô Bé Bán Diêm được cập nhật mới nhất trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Giải VBT Ngữ văn 8 bài Cô bé bán diêm
Câu 1 (trang 54 VBT Ngữ văn 8, tập 1)
Hãy xác định ba phần (chỗ bắt đầu, chỗ kết thúc từng phần) của bài này nếu lấy việc em bé quẹt từng que diêm làm phần trọng tâm. Căn cứ vào đâu đế có thể chia phần thứ hai (phần trọng tâm) thành những đoạn nhỏ hơn?
Truyện này có thể chia làm ba phần:
– Phần 1 (từ đầu… “cứng đờ ra”): Hoàn cảnh đáng thương của cô bé bán diêm.
– Phần 2 (tiếp… “chầu Thượng đế”): Những lần quẹt diêm những mơ ước giản dị hiện ra.
– Phần 3 (còn lại) Cái chết của cô bé bán diêm và thái độ của mọi người.
Căn cứ vào những lần quẹt diêm của cô bé để xác định những đoạn nhỏ:
– Ba lần quẹt đầu tiên ước mơ về lò sưởi, đồ chơi, thức ăn hiện ra.
– Lần thứ 4, người bà hiện lên hiền hậu.
– Lần thứ 5 cô bé quẹt hết số diêm trong hộp để níu giữ hình ảnh người bà.
Câu 2 (trang 54 VBT Ngữ văn 8, tập 1)
Trong phần đầu, nhà văn đã tạo dựng hoàn cảnh (gia đình, cuộc sống) và bối cảnh (thời gian, không gian) của em bé bán diêm như thê nào? Những hình ảnh tương phản (đối lập, đặt gần nhau, làm nổi bật lẫn nhau) ở đây được thế hiện ra sao và nhằm mục đích nghệ thuật cụ thể gì?
a. Hoàn cảnh của em bé bán diêm:
+ Gia đình mới sa sút (bà chết, gia sản tiêu tan, dời chỗ ở đẹp đẽ, ấm cúng ngày trước…)
+ Ở với cha trên gác sát mái nhà, gió lùa rét buốt.
b. Khoanh tròn vào chữ cái trước câu trả lời đúng về thời gian, không gian xảy ra câu chuyện:
A. Đêm giao thừa ở một tiệm bán đồ chơi.
B. Đêm giao thừa ở một góc tường giữa hai ngôi nhà.
C. Đêm mùa thu ở đường phố.
c. Nhiều sự tương phản đã diễn ra xung quanh em bé và trong lòng em bé:
+ Quá khứ – hiện tại (yên vui, sum họp – sa sút, chia lìa).
+ Phố xá tưng bừng, tấp nập – em bé lang thang cô đơn nghèo khó.
+ Mộng ảo huy hoàng – thực tế tối tăm, khắt nghiệt: bị bỏ rơi trong bần cùng, bất hạnh nhưng tâm hồn luôn luôn hướng về điều thiện và cái đẹp.
Câu 3 (trang 55 VBT Ngữ văn 8, tập 1)
Các mộng tưởng của em bé qua các lần quẹt diêm (lò sưởi, bàn ăn, cây thông Nô-en, người bà, hai bà cháu bay đi) diễn ra lần lượt có hợp lí không? Vì sao? Trong các mộng tưởng ấy, điều nào gắn với thực tế, điều nào thuần túy chỉ là tưởng tượng?
– Qua các lần quẹt diêm, các mộng tưởng đã lần lượt hiện ra, rất hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh thực tế và tâm lí của em bé:
+ Khát khao được sưởi ấm đến được ăn no và ngon.
+ Vui vầy xung quanh cây thông Nô-en.
+ Hồi tưởng về những lần đón giao thừa ngày trước khi bà nội còn sống.
+ Cảnh hai bà cháu cầm tay nhau cùng bay lên trời.
– Mộng tưởng gắn với thực tế: lò sưởi, ngỗng quay, cây thông.
– Mộng tưởng thuần túy là mộng tưởng: gặp lại người bà.
Câu 4 (trang 56 VBT Ngữ văn 8, tập 1)
Hãy phát biếu những cảm nghĩ của mình về truyện “Cô bé bán diêm” (trích), nói chung và về đoạn kết của truyện nói riêng.
Cảm nghĩ về cô bé bán diêm:
– Cô bé có hoàn cảnh đáng thương, tội nghiệp:
+ Sống trong cảnh thiếu thốn về vật chất lẫn tinh thần.
+ Phải bươn chải kiếm sống ngay từ khi còn rất nhỏ.
– Ước mơ của em thực tế, giản dị và hồn nhiên:
+ Mơ no ấm, sum vầy bên gia đình.
+ Muốn được vui chơi đúng với lứa tuổi của em.
– Em bé tội nghiệp chết đói và chết rét ngoài đường.
Đoạn kết truyện:
– Cảnh tượng cô bé bán diêm chết vì giá rét nhưng miệng vẫn mỉm cười- đây là sự tưởng tượng của tác giả, giảm bớt sự đau thương.
– Cái chết lúc này là sự cứu rỗi- hai bà cháu bay về chầu Thượng đế.
– Cái kết vừa có sự bi thương, vừa mang màu sắc cổ tích (phản ánh ước mơ, khát vọng được hạnh phúc, ấm no của con người và cũng là tư tưởng nhân đạo của tác giả).
Câu 5 (trang 56 VBT Ngữ văn 8, tập 1)
Nhà văn muốn gửi gắm điều gì qua các chi tiết em bé chỉ bật một que diêm cho lò sưởi, thức ăn, cây thông Nô-en; nhưng lại bật cả bao diêm để níu bà em?
– Em bé chỉ bật một que diêm cho lò sưởi, thức ăn, cây thông nô-en nhưng lại bật cả bao diêm để níu giữ bà bởi vì trong lòng em bà quan trọng hơn tất cả mọi thứ vật chất kia, em cần tình yêu thương của bà, cần hơn tất cả mọi thứ đồ ăn thức uống, lò sưởi và những vật ngoài thân. Chỉ có bà mới đem lại cho em sự ấm áp và niềm vui thực sự.
Giải Vbt Ngữ Văn 8 Cô Bé Bán Diêm
Cô bé bán diêm
Câu 1 (Câu 1 trang 68 SGK Ngữ Văn 8 Tập 1):
Trả lời:
a. Bố cục văn bản chia làm: 3 phần
Phần 1( từ đầu… cứng đờ ra): Hoàn cảnh đáng thương của cô bé bán diêm
Phần 2 (tiếp… chầu Thượng đế): Những lần quẹt diêm những mơ ước giản dị hiện ra
Phần 3( còn lại) Cái chết của cô bé bán diêm và thái độ của mọi người.
b. Phần trọng tâm của văn bản chia thành các đoạn nhỏ như sau:
Đoạn 1: Từ Chà! Giá quẹt một que diêm đến bị cha mắng: Ước mơ của cô bé về chiếc lò sưởi
Đoạn 2: Từ em quẹt que diêm thứ hai đến lạnh lẽo: Ước mở của cô bé về bàn thức ăn thịnh soạn.
Đoạn 3: Từ em quẹt que diêm thứ ba đến ngôi sao trên trời: Ước mơ của cô bé về cây thông Nô – en.
Đoạn 4: Từ em quẹt que diêm nữa đến khuôn mặt em bé cũng biến mất: Ước mơ của cô bé được gặp lại bà mình
Đoạn 5: Từ thế là em đến họ đã về chầu Thượng đế: Cô bé quẹt diêm níu giữ bà ở lại
Câu 2 (Câu 2 trang 68 SGK Ngữ Văn 8 Tập 1):
Trả lời:
– Gia cảnh của cô bé bán Diêm, thời gian không gian xảy ra câu chuyện:
+ Nhà nghèo, mồ côi mẹ sống cùng bà và người cha. Khi bà mất sống với người cha nát rượu suốt ngày chửi bới đánh đập cô bé.
+ Đêm giao thừa, trời rét mướt, cô bé đầu trần chân đất bụng đói đang dò dẫm trong bóng đêm.
– Những hình ảnh tương phản:
– Giá trị gợi cảm: Làm nổi bật lên tình cảnh đáng thương, tội nghiệp của cô bé bán diêm.
Câu 3 (Câu 3 trang 68 SGK Ngữ Văn 8 Tập 1):
Trả lời:
– Những mộng tưởng đó diễn ra theo trình tự rất hợp lí: Những mộng tưởng gắn với thực tế, là khát khao của bất cứ đứa trẻ nào
– Cô bé cố níu giữ giấc mộng cuối cùng bởi vì: Cô bé rất thương nhớ người bà hiền hậu, muốn được quay trở về cuộc sống bên bà như xưa, muốn được cùng bà giải thoát khỏi thực tại khốn khổ đau buồn.
Câu 4:
Trả lời:
Khi miêu tả về cái chết của cô bé bán Diêm, An-đéc-xen đã thể tấm lòng nhân ái đầy bào dung, yêu thương mà ông dành đến đứa trẻ tội nghiệp. Em bé chết nhưng đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Hình ảnh đó thật đẹo thể hiện sự hạnh phúc, mãn nguyện của cô bé. Em ra đi rất thanh thản, nó giống như một sự giải thoát cho chính cuộc đời em. Mọi người qua đường chỉ biết thờ ơ bảo nhau cô bé ra đi vì lạnh không ai nhận ra được nét mặt rạng rỡ kia, càng không ai thấy được giây phút huy hoàng mà em đã trải qua trong đêm ấy. Qua đây đã cho thấy, thông qua việc miêu tả cái chết của cô bé bán diêm, An-đéc-xen không chỉ thể hiện lòng thương, nói lên nỗi thống khổ của em bé mà ông còn tố cáo xã hội lạnh lùng thơ ơ trước số phận đau thương của con người bất hạnh.
Câu 5: Em có nhận xét gì về nghệ thuật kể chuyện của An-đéc-xen
Trả lời:
– Lối kể chuyện của An-đéc-xen rất phong phú, linh hoạt:
Có lúc dựa vào tâm trạng của nhân vật để dẫn dắt người đọc: Những lần quẹt diêm, diêm cháy đem đến những mộng tưởng, niềm vui, hạnh phúc, khi diêm vụt tắm đem đến sự hụt hẫng, buồn tiếc
Có lúc xen kẽ giữa kể và tả: Mỗi lần quẹt diêm, các hình ảnh xuất diện được tác giả miêu tả rất sinh động (ngọn lửa, bàn ăn, cây thông,…)
Có lúc độc thoại, đối thoại: Cô bé bán diêm độc thoại với chính mình, và đối thoại khi gặp bà.
– Lối kể chuyện ấy làm cho cây chuyện vừa sinh động, lại vừa lôi cuốn, đem đến sự hấp dẫn, thú vị cho người đọc.
Các bài giải vở bài tập Ngữ Văn lớp 8 (VBT Ngữ Văn 8) khác:
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:
Đọc Hiểu Văn Bản: Cô Bé Bán Diêm
Câu chuyện kể về một cô bé bán diêm mồ côi mẹ từ nhỏ trong đêm giao thừa tuyết rơi lạnh giá cố bán những bao diêm. Cả ngày nay cô bé phải đi qua nhiều con phố nhưng không bán được bao nào, cái lạnh, cái đói làm em kiệt sức. Nhưng em lại không thể quay về nhà được vì sợ bị đòn. Ngồi nép vào góc tường em rút những que diêm trong bao ra đốt để sưởi ấm. Quẹt que diêm thứ nhất,lò sưởi hiện ra,que thứ hai vụt cháy em thấy đồ ăn thơm ngon,rồi que thứ ba em thấy cây thông noel rực rỡ đẹp đẽ , que cuối cùng em được gặp được người bà hiền hòa nhân hậu. Em đã quẹt hết chỗ diêm mà mình có để được nhìn thấy bà. Em ra đi nhưng trên môi em vẫn còn giữ lại nụ cười vì trong mơ em đã được gặp bà.
Văn bản chia làm 3 phần
– Phần 1: từ đầu đến cứng đờ ra (hoàn cảnh đáng thương của cô bé bán diêm)
– Phần 2: tiếp theo đến chầu Thượng đế ( bốn lần quẹt diêm và điều ước sâu trong lòng em)
– Phần 3: còn lại.( em bé đang thương ra đi trong sự bình thản)
Soạn bài Cô bé bán diêm 3 cách
Hãy xác định ba phần (chỗ bắt đầu, chỗ kết thúc từng phần) của bài này nếu lấy việc em bé quẹt từng que diêm làm phần trọng tâm. Căn cứ vào đâu đế có thể chia phần thứ hai (phần trọng tâm) thành những đoạn nhỏ hơn?
Chia 3 phần như phần bố cục
– Căn cứ vào những lần quẹt diêm của cô bé để xác định những đoạn nhỏ:
+ Ba lần quẹt diêm đầu tiên của cô bé thấy lò sưởi,đồ chơi,thức ăn: ước muốn bình thường giản dị của cô bé được như những đứa trẻ khác.
+ Lần thứ tư quẹt diêm có bé nhìn thấy bà: khát khao của cô bé muốn được bảo vệ
+ Cô bé đốt hết chỗ diêm mình có để níu giữ hình ảnh của bà.
– Căn cứ vào từng lần quẹt diêm của cô bé bán diêm để chia phần trọng tâm thành các đoạn nhỏ.
+ Lần thứ nhất: chiếc lò sưởi xuất hiện
+ Lần thứ hai: bàn ăn thịnh soạn hiện lên
+ Lần thứ ba: cây thông nô-el rực rỡ hiện ra
+ Lần cuối cùng: người bà yêu quý của em xuất hiện
Có thể chia thành 3 phần như sau:
– Đoạn 1: Từ đầu đến “cứng đờ ra” : Nói về hoàn cảnh của cô bé bán diêm
– Đoạn 2: Tiếp đến “Thượng đế”: Những lần quẹt diêm và mộng tưởng của cô bé
– Đoạn 3: Còn lại: Cái chết thương tâm của cô bé.
– Phần trọng tâm có thể chia thành những đoạn nhỏ dựa trên những lần quẹt diêm của em bé. Mỗi lần quẹt diêm là một đoạn nhỏ hơn.
Trong phần đầu, nhà văn đã tạo dựng hoàn cảnh (gia đình, cuộc sống) và bối cảnh (thời gian, không gian) của em bé bán diêm như thê nào? Những hình ảnh tương phản (đối lập, đặt gần nhau, làm nổi bật lẫn nhau) ở đây được thế hiện ra sao và nhằm mục đích nghệ thuật cụ thể gì?
Hoàn cảnh cô bé bán diêm rất đáng thương:nhà nghèo,mồ côi mẹ từ nhỏ,bà ngoại mất sớm,cô sống với người cha trên căn gác sát mái nhà,cha cô bé suốt ngày uống rượu đánh đập cô bé. Ngày giáng sinh cô bé vẫn phải đi bán. Cô bé có những ước mơ nhỏ nhoi nhưng ngoài hiện thực không có. Để rồi em ra đi trong cái lạnh của ngày tuyết rơi.
– Những hình ảnh đối lập được nhà văn sử dụng nhằm khắc họa nỗi khổ của cô bé:
Mất đi mẹ và bà ngoại làm những tháng ngày của cô bé trở nên đáng thương.
– Gia cảnh của nhân vật:
+ Trước kia: khá giả, sống cùng ngoại trong ngôi nhà đẹp có bức tường xuân bao quanh
+ Hiện tại: bị tiêu sản, ngoại mất, mồ côi mẹ, nhà nghèo, sống trong xó xỉnh tối tăm, ngày ngày phải đi bán diêm kiếm sống, sống cùng người cha tệ bạc, hay chửi mắng, đập đánh em.
– Thời gian xảy ra câu chuyện: Vào đêm giao thừa
– Không gian: trên con đường tối tăm, em đi trong bóng tối khi mà những ngôi nhà trong phố đều sáng rực những ánh điện, sực những mùi ngỗng quay,
– Những hình ảnh tương phản:
a. Hoàn cảnh:
– Bà nội và mẹ đã qua đời
– Sống với bố khó tính – hay chửi mắng
– Nhà nghèo, nơi tối tăm
– Phải đi bán diêm để kiếm sống
b. Bối cảnh của truyện:
– Thời gian: vào đêm giao thừa
c. Các hình ảnh tương phản:
Các mộng tưởng của em bé qua các lần quẹt diêm (lò sưởi, bàn ăn, cây thông Nô-en, người bà, hai bà cháu bay đi) diễn ra lần lượt có hợp lí không? Vì sao? Trong các mộng tưởng ấy, diều nào gắn với thực tế, điều nào thuần túy chỉ là tưởng tượng?
Mộng tưởng của cô bé bán diêm diễn ra theo trình tự hợp lý:
+ Đầu tiên trong sự lạnh lẽo của những bông tuyết cô ước có cái lò sưởi để được cảm nhận sự ấm áp.
+ Có được sự ấm áp, cô bé thấy đói, vì cô đã nhịn rất lâu rồi.
+ Bàn thức ăn biến mất làm cô nhớ đến sự đẹp đẽ đêm giáng sinh là cả nhà được quây quần bên cây thông noel.
+ Cô gặp được người bà hiền hậu, mà mỉm cười với cô.
+ Cảnh hai bà cháu nắm chặt tay nhau bay lên trời: thoát khỏi những đau buồn.
– Mộng tưởng gắn với thực tế: là sự ấm áp của lò sưởi, món ngỗng quay thơm ngon, cây thông được trang trí đẹp đẽ.
– Mộng tưởng thuần túy là gặp được người bà thân thương.
Những mộng tưởng của cô bé bán diêm là những mộng tưởng chung của tất cả những đứa trẻ đồng cảnh ngộ thời bấy giờ khao khát cuộc sống ấm no hạnh phúc bên gia đình.
Ba lần mộng tưởng đầu tiên đều gắn với thực tế
Lần cuối cùng em được gặp bà là mộng tưởng.
Các mộng tưởng của em bé diễn ra lần lượt theo thứ tự hợp lý:
– Lần 1: Vì trời rét
– Lần 2: Vì bụng đói
– Lần 3: Đó đó là đêm giao thừa
– Lần 4: Trong giờ phút hạnh phúc đó bà đã hiện về đêm đến cho em tình yêu thương thuở nào.
– Lần 5: Em muốn níu bà lại, muốn đi với bà …
– Các mộng tưởng lò sưởi, bàn ăn, cây thông noel gắn liền với thực tế em bé đang rất cần. Còn hình ảnh con ngỗng quay bay ra khỏi đĩa và hình ảnh 2 bà cháu nắm tay nhau bay lên trời thì thuần túy là mộng tưởng. Mong ước hạnh phúc chính đáng đối với thân phận bất hạnh của em.
Câu 4 (trang 68 Ngữ Văn 8 Tập 1)
Hãy phát biếu những cảm nghĩ của mình về truyện “Cô bé bán diêm” (trích), nói chung và về đoạn kết của truyện nói riêng.
Cảm nghĩ về cô bé bán diêm: một cô bé nhỏ đáng thương. Ở cái tuổi đáng ra nhận được sự yêu thương chăm sóc từ gia đình nhưng phải bươn chải kiếm tiền qua ngày cho người cha, lại còn hay bị ông ta la mắng, đánh đập. Cô bé luôn mơ ước có được cuộc sống no ấm,sum vầy bên gia đình,muốn được vui chơi đúng với lứa tuổi của em. Cô bé ra đi, để lại cho mọi người sự bàng hòng và thức tỉnh.
– Cảm nghĩ về đoạn kết: Hình ảnh cô bé bán diêm ra đi dưới cái lạnh trogn đêm tuyết rơi nhưng nụ cười vẫn đọng trên môi- đó là hình ảnh tác giả tưởng tượng đưa vào câu chuyện giúp giảm bớt sự đau thương. Cái chế có lẽ là một sự giải thoát cho em, tác giả miêu tả cảnh hai bà cháu nắm tay nhau bay về trời. Một cái kết mang màu sắc cổ tích mặc dù bi thương nhưng vẫn có gì đó thật đẹp đẽ. Hi vọng em sẽ tìm được hạnh phúc ấm áp ở nơi xa.
Em bé bán diêm đã chết, em chết vì đói rét. Cái chết của em được miêu tả nhẹ nhàng, thanh thản, đó là cái chết của một con người toại nguyện “đôi má hồng và đôi môi mỉm cười” bởi em đã được về với bà ở một thế giới khác không còn buồn đau và đói rét. Em thật tội nghiệp, người đời đối xử với em tệ quá, bà và mẹ là người thương em nhưng đều đã mất,. Người cha đối xử với em thiếu tình thương, khách qua đường chẳng đoái hoài đến em, những người nhìn thi thể em vào ngày mùng một cũng lạnh lùng như thế.
Đọc truyện Cô bé bán diêm em cảm thấy buồn và xót xa cho số phận của một cô bé đầy trái ngang. Vốn là một đứa trẻ được sống trong sự ấm êm, yêu thương nhưng rồi cuộc đời đã đưa đẩy em vào cảnh phải bán từng bao diêm kiếm sống. Không may mắn được phúc phần yêu thương từ bố mẹ, em còn chịu sự vô tâm từ những người qua đường. Họ đều thấy em, nhưng không ai động lòng mà trao cho em chiếc áo, đưa em chiếc bánh đỡ đói, mua giùm em bao diêm,….Cuối cùng, em đã chết vì lạnh, vì đói, vì rét và chết bởi cả sự ích kỷ của con người. Cái chết ấy như một sự giải thoát cho em khỏi cuộc đời vô vàn những khổ cực, đớn đau mà chính em phải gặm nhấm, gánh chịu từng ngày. Câu chuyện bồi đắp cho tâm hồn em sự yêu thương, cảm thông với những người sinh ra không may mắn, em hiểu và trân trọng hơn giá trị của tình người trong cuộc đời.
**Đoạn kết câu chuyện nói về cái chết của em bé bán diêm. Khi chết, trên khuôn mặt em đôi môi vẫn mỉm cười, đôi má em ửng hồng như một sự mãn nguyện của cô bé khi được đến bên người bà yêu quý. Qua từng lời văn, ta thấy được sự xót xa, thương cảm của nhà văn trước nỗi bất hạnh của cô bé.
Tác phẩm cho thấy sự đồng cảm của tác giả đối với những số phận đáng thương trong xã hội.
Giải Soạn Bài Cô Bé Bán Diêm (Trích) Sbt Ngữ Văn 8 Tập 1
Giải câu 1, 2, 3 trang 47 SBT Ngữ Văn 8 tập 1. Thống kê số lần em bé quẹt diêm (mỗi lần một que diêm, lần cuối cùng cả số diêm còn lại trong bao).
1. a) Thống kê số lần em bé quẹt diêm (mỗi lần một que diêm, lần cuối cùng cả số diêm còn lại trong bao).
b) Mộng tưởng hiện ra trước mắt em khi nào (diêm sáng, diêm tắt) ? Em bé trở về với hiện thực khi nào (diêm sáng, diêm tắt) ?
c) Xem xét độ dài văn bản (đo bằng số dòng) nhà văn phân bổ cho các lần quẹt diêm ây có tương đối hợp lí không ? Vì sao ?
d) Nêu khái quát sự tương phản giữa thế giới mộng tưởng và thế giới hiện thực ấy.
Trả lời:
Để trả lời các ý (a) và (b), học sinh phải đọc kĩ văn bản để nắm chắc cô bé bán diêm bắt đầu quẹt diêm từ đâu, kết thúc lần quẹt diêm cuối cùng chỗ nào, quẹt diêm tất cả mây lần, lúc nào mộng tưởng hiện ra, lúc nào cô bẻ trở về với hiện thực. Học sinh cần đầu tư trí tuệ nhiều hơn mới giải thích được là nhà văn phân bổ tương đối hợp lí độ dài văn bản của các lần quẹt diêm (c) và nêu lên được sự tương phản giữa thế giới mộng tưởng và thế giới hiện thực. Có thể trình bày ngắn gọn mỗi ý (c) và (d) khoảng 4 – 5 dòng. Các ý khác có thể trả lời miệng hoặc ghi vắn tắt vào vở bài tập.
2. a) Liệt kê vắn tắt (khoảng 5 – 7 từ) lần lượt từng mộng tưởng của em bé sau mỗi lần quẹt diêm.
b) Tự đặt mình vào hoàn cảnh của em bé bán diêm lúc bấy giờ (cha mẹ, bà, cái đói, cái rét, đêm giao thừa,…) để tìm hiểu xem nhà văn sắp xếp thứ tự các mộng tưởng như thế có phù hợp với tâm trạng của em không. Thử đảo trật tự các mộng tưởng rồi lập luận xem sao.
c) Trong số các mộng tưởng của em bé bán diêm, điều nào gắn với thực tế, hiểu theo nghĩa có cơ sở trong thực tế cuộc sống ? Cơ sở thực tế ấy là gì ?
d) Trong số các mộng tưởng ấy, điều nào thuần tuý chỉ là mộng tưởng ? Tại sao có thể nói điều đó thuần tuý chỉ là mộng tưởng mà thôi ?
Trả lời:
Để trả lời các ý (b), (c) và (đ), trước hết học sinh phải liệt kê theo yêu cầu của ý (a). Sau khi chứng minh được cách sắp xếp hợp lí của nhà văn phù hợp với tâm trạng của cô bé bán diêm lúc bây giờ (b), thì động tác đảo lại trật tự và suy luận chỉ là để khẳng định thêm điều đó. Có thể trình bày thành một đoạn văn khoảng mười dòng để trả lời ý (b). Trả lời các ý (c) và (d) không khó khăn vì đã được gợi mở ngay ở câu hỏi. Có thể làm bài tập này bằng cách trả lời miệng hoặc ghi vắn tắt các ý trả lời vào vở bài tập theo kiểu gạch đầu dòng.
3. a) Nêu mấy nét cơ bản về tác giả truyện Cô bé bán diêm (họ tên, người nước nào, năm sinh năm mất, thể loại sáng tác chủ yếu, nhan đề một vài tác phẩm tiêu biểu).
b) Tóm tắt (khoảng 4 – 5 dòng) tư tưởng nhân đạo và tài năng nghệ thuật của nhà văn qua truyện ấy.
c) Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện Cô bé bán diêm.
Trả lời:
Trả lời đầy đủ các ý của bài tập 1, 2 là học sinh đã nắm được tư tưởng nhân đạo và tài năng nghệ thuật của nhà văn qua truyện Cô bé bán diêm ; đến bài tập 3, chỉ cần rút ra vài nét cơ bản để trả lời ý (b). Để trả lời ý (c), học sinh cần đọc kĩ lại truyện và trình bày ít nhât khoảng 5 dòng cảm nghĩ sâu đậm nhất của mình về toàn truyện hoặc về một vài chi tiết nào đó trong truyện.
Soạn Bài Tóm Tắt Cô Bé Bán Diêm (An
Soạn bài câu 1 – trang 68 SGK Ngữ Văn 8
Hãy xác định ba phần (chỗ bắt đầu, chỗ kết thúc từng phần) của bài này nếu lấy việc em bé quẹt từng que diêm làm phần trọng tâm. Căn cứ vào đâu để có thể chia phần thứ hai (phần trọng tâm) thành những đoạn nhỏ hơn?
Phần 1. Từ đầu cho đến “cứng đờ ra”. Nội dung là hoàn cảnh đáng thương của cô bé bán diêm nhỏ nhắn.
Phần 2. Tiếp đó đến “chầu Thượng đế”: Những lần quẹt diêm và những mộng tưởng và cũng là ước mơ giản dị hiện ra.
– Căn cứ vào phần 2 của bài văn có thể chia thành những phần nhỏ hơn dựa vào chi tiết quẹt diêm của cô bé.
Lần 1. Hiện lên hình ảnh lò sưởi ấm áp.
Lần 3. hiện lên cây thông Noel
Lần 4. Cô bé bán diêm được gặp bà.
Soạn bài câu 2 – trang 68 SGK Ngữ Văn 8
Trong phần đầu, nhà văn đã tạo dựng hoàn cảnh (gia đình, cuộc sống) và bối cảnh (thời gian, không gian) của em bé bán diêm như thế nào? Những hình ảnh tương phản (đối lập, đặt gần nhau, làm nổi bật lẫn nhau) ở đây được thế hiện ra sao và nhằm mục đích nghệ thuật cụ thể gì?
Hoàn cảnh cuộc sống của cô bé bán diêm:
– Gia cảnh của cô bé bán diêm: là cô bé bán diêm nghèo, sống trên căn gác sát mái nhà, mồ cô mẹ, bà nội thân yêu đã qua đời, em sống với người bố luôn mắng nhiếc và đánh đập.
– Hình ảnh cô bé bán diêm: đầu trần, chân đất, bụng đói.
– Thời gian: Đêm giao thừa.
– Không gian: Mọi nhà đều sáng đèn, trưng bày thức ăn để đón giao thừa, ngoài đường tối tăm, lạnh lẽo.
Đối lập các hình ảnh:
Soạn bài câu 3 – trang 68 SGK Ngữ Văn 8
Các mộng tưởng của em bé qua các lần quẹt diêm (lò sưởi, bàn ăn, cây thông Noel, người bà, hai bà cháu bay đi) diễn ra lần lượt có hợp lý không? Vì sao? Trong các mộng tưởng ấy, diều nào gắn với thực tế, điều nào thuần túy chỉ là tưởng tượng?
– Những mộng tưởng xuất hiện qua các lần quẹt diêm diễn ra hợp lý theo trình tự, phù hợp với hoàn cảnh thực tế cũng như mong muốn bên trong của cô bé:
– Trong đó những mộng tưởng; lò sưởi, bàn ăn, cây thông đều là mộng tưởng gắn liền với thực tế.
– Mộng tưởng thuần túy là mộng tưởng gặp lại bà nội.
Soạn bài câu 4 – trang 68 SGK Ngữ Văn 8
Hãy phát biểu những cảm nghĩ của mình về truyện “Cô bé bán diêm” (trích), nói chung và về đoạn kết của truyện nói riêng.
– Cảm nghĩ về truyện:
Cô bé bán diêm là một truyện ngắn đặc sắc. Câu chuyện thật thương tâm. Hạnh phúc đến với cô bé đáng thương ở đây không thể nào có được trên trần thế mà chỉ có trong ước mơ, trong mộng tưởng. Khi sắp sửa lìa đời, người đời đều ghẻ lạnh, chi có mẹ cô và bà nội của cô là thương yêu cô hết lòng nhưng cả hai đều không còn trên đời này nữa. Bố cô vì nghèo khó nên lúc nào cũng cau có, cũng luôn luôn mắng nhiếc, chửi rủa cô. Trong cái xã hội thiếu hẳn tình thương ấy, nhà văn An-đéc-xen đã nhỏ những giọt nước mắt của lòng nhân đạo xuống số phận cô bé đáng thương. Hình ảnh thi thể cô với đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười và cảnh huy hoàng hai bà cháu bay lên trời để đón lấy những niềm vui đầu năm chính là niềm ưu ái mà nhà văn dành cho những số phận đau khổ.
– Cảm nghĩ về đoạn kết truyện:
Là một bi kịch đau thương, cái chết một cô bé trong cô đơn giá lạnh, trong đói khát, trong đêm giao thừa. Cảnh tượng cô bé chết vì giá rét nhưng miệng vẫn mỉm cười là cách tác giả muốn giảm bớt đau thương. Cái chết lúc này vừa là sự cứu rỗi hai bà cháu bay về chầu Thượng đế. Cái kết ấy vừa có sự bi thương lại vừa mang màu sắc cổ tích đó là sự phản ánh ước mơ, khát vọng được hạnh phúc, ấm no của con người.
Tóm tắt bài Cô bé bán diêm
Đêm giao thừa, trời rét mướt. Một cô bé bán diêm nghèo, mồ côi mẹ, đầu trần, chân đất, bụng đói dò dẫm đi trong bóng tối. Em không dám về nhà vì sợ bố đánh, vì em không bán được que diêm nào cả. Ngồi nép một góc tường trong thời tiết lạnh lẽo của đêm giao thừa, em quẹt một que diêm sưởi ấm. Quẹt que diêm đầu tiên lên, em tưởng như ngồi trước lò sưởi, vừa duỗi chân ra sưởi thì diêm vụt tắt. Que diêm thứ hai, em thấy bàn ăn thịnh soạn…rồi diêm vụt tắt. Que diêm thứ ba thấy cây thông Noel, em với tay về phía cây… diêm tắt. Que diêm thứ tư, thật kì diệu, em nhìn thấy người bà hiền hậu độc nhất với em, nhưng bà đã chết từ lâu. Rồi diêm vụt tắt, em quẹt hết cả bao diêm để níu bà. Rồi em cùng bà bay lên cao. Nhưng vào sáng hôm sau, ở góc tường đó, người ta đã thấy một cô bé bán diêm chết vì giá rét, đôi má hồng và đôi môi mỉm cười như rất hạnh phúc.
Cô bé bán diêm của nhà văn An-đéc-xen
Nhiều truyện của ông được biên soạn lại từ những truyện cổ tích, nhưng cũng có những truyện do ông sáng tạo ra.
Ông có những tác phẩm quen thuộc, nổi tiếng như: Cô bé bán diêm, Bầy chim thiên nga, Nàng tiên cá, Bộ quần áo mới của hoàng đế, Nàng công chúa và hạt đậu… Những tác phẩm này có ảnh hưởng lớn vì chúng đều mang giá trị nhân văn và ý nghĩa cao cả.
Truyện được xuất bản lần đầu tiên năm 1848 trong phần năm của quyển Nye Eventyr (Những truyện cổ tích mới) với nhan đề Den Lille Pige Med Svovlstikkerne (Cô gái bé nhỏ với những que diêm).
– Phần 1: Từ đầu đến “Lúc này đôi bàn tay em đã cứng đờ ra”. Hình ảnh cô bé bán diêm trong đêm giao thừa.
– Phần 3. Còn lại. Cái chết thương tâm cô bé bán diêm.
Gia cảnh sau sút, mẹ mất, bà nội – người yêu thương nhất cũng vừa mới qua đời.
Sống với người bố khó tính, hay mắng nhiếc.
Phải đi bán diêm để kiếm sống qua ngày.
– Bối cảnh của truyện:
Thời điểm bán diêm: Đêm giao thừa rét mướt.
Không gian: rét buốt dữ dội, tuyết rơi trắng xóa, trong phố sáng rực và có mùi ngỗng quay.
– Hình ảnh cô bé bán diêm:
Ngồi nép vào một góc tường, giữa hai ngôi nhà.
Nghĩ đến nếu không bán được diêm mà trở về nhà sẽ bị bố đánh.
Thu đôi chân cho đỡ lạnh nhưng càng lúc càng rét buốt hơn.
Đôi bàn tay cứng đờ ra vì lạnh giá.
– Hình ảnh tương phản:
Cô bé đã trải qua 4 lần quẹt diêm với những tưởng tượng lần lượt xuất hiện:
– Lần thứ nhất: Mơ ước có lò sưởi – mong muốn lúc này có được sự ấm áp.
– Lần thứ ba: Mơ ước có cây thông Noel – mong muốn được đón giao thừa như mọi người.
– Lần thứ tư: Mơ ước được gặp lại bà – mong muốn được che chở, yêu thương.
– Lần cuối cùng: Quẹt toàn bộ số diêm còn lại – để gặp lại bà và đi theo bà đến nơi hạnh phúc.
– Không gian: ở một xó tường lạnh lẽo
– Hình ảnh: Một cô bé có đôi má hồng, đôi môi đang mỉm cười nhưng em đã chết cóng.
– Lý do: Không có ai quan tâm, giúp đỡ. Gia đình thì ghẻ lạnh, thờ ơ.
Cô bé bán diêm đã cho người đọc thấy được lòng thương cảm đối với những số phận bất hạnh như cô bé trong câu chuyện. Đồng thời đó cũng là lời tố cáo xã hội đương thời khi con người trở nên lạnh lùng, vô cảm.
Nhà văn đã thành công trong nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, trí tưởng tượng bay bổng. Đan xen yếu tố hiện thực và mộng tưởng. Kết hợp với tự sự, miêu tả và biểu cảm. Sử dụng các hình ảnh đối lập để làm nổi bật chi tiết.
Qua soạn bài Cô bé bán diêm cho ta thấy được tác giả đã thật sự thành công trong việc xây dựng hình cảnh cô bé nhỏ nghèo khổ cùng những chi tiết quẹt diêm và mộng tưởng. Sự đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng ấy cũng chính là thể hiện tình yêu thương, tình cảm đối với cuộc sống của những người nghèo khó của An-đéc-xen. Đúng thật phải có tấm lòng, thấu hiểu, tình thương tận sâu trong đáy tim thì nhà văn mới có thể viết nên một câu chuyện làm rung cảm đến như vậy.
Cập nhật thông tin chi tiết về Giải Vbt Ngữ Văn 8 Bài Cô Bé Bán Diêm trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!