Bạn đang xem bài viết Một Số Phương Pháp Giải Bài Tập Chương Iii: Adn Và Gen Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Môn Sinh Học 9 Ở Trường Thcs Nga Tân được cập nhật mới nhất trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
PHÒNG GD&ĐT NGA SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIẢI BÀI TẬP CHƯƠNG III: ADN VÀ GEN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN SINH HỌC 9 Ở TRƯỜNG THCS NGA TÂN Người thực hiện: Phạm Đức Mạnh Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THCS Nga Tân SKKN thuộc môn: Sinh học THANH HÓA, NĂM 2019 MỤC LỤC Trang A. Mở đầu 1 I. Lí do chọn đề tài 1 II. Mục đích nghiên cứu 1 III. Đối tượng nghiên cứu 1 IV. Phương pháp nghiên cứu 1 B. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2 I. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 2 II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 3 III. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 4 1. Dạng 1: Xác định trình tự nuclêôtit của gen (ADN) và ARN. 4 2. Dạng 2: Xác định số lượng nuclêôtit, chiều dài, khối lượng, số liên kết hiđrô của gen. 6 3. Dạng 3: Bài tập thể hiện mối quan hệ giữa gen (ADN) và mARN 10 4. Dạng 4: Bài tập thể hiện mối quan hệ giữa gen (ADN), mARN và prôtêin. 14 5. Dạng 5. Tính số nuclêôtit của tế bào sinh dưỡng, giao tử. 17 IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 18 C. Kết luận, kiến nghị 19 I. Kết luận 19 II. Kiến nghị 20 Tài liệu tham khảo Phụ lục A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong những năm gần đây, toàn ngành giáo dục đang áp dụng những biện pháp về đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực và nâng cao trình độ nhận thức của học sinh, đem lại hiệu quả giảng dạy và học tập cao nhất, chuẩn bị hành trang về kiến thức và kĩ năng giúp các em phát triển toàn diện, tự tin trước những yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Vì thế công tác bồi dưỡng học sinh giỏi trở thành một nhiệm vụ rất quan trọng của mỗi giáo viên. Qua thực tế giảng dạy trên lớp và trực tiếp tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học 9 tôi nhận thấy, bài tập về ADN và gen là nội dung khó, đa dạng và luôn chiếm một phần quan trọng trong cấu trúc đề thi học sinh giỏi các cấp và thi tuyển vào lớp 10 trường THPT. Để giải quyết tốt bài tập về ADN và gen đòi hỏi học sinh phải ngoài niềm đam mê, ham học hỏi, hiểu rõ bản chất về ADN và gen, có kĩ năng toán học còn phải nắm vững hệ thống phương pháp giải và sự phân loại các dạng bài tập. Với đa số học sinh việc giải các bài tập về ADN và gen trở thành một thách thức, trở ngại khó vượt qua, vì thế sự hứng thú học tập dành cho bộ môn Sinh học có dấu hiệu bị giảm sút. Hiện nay các tài liệu nghiên cứu, hướng dẫn giải bài tập về ADN và gen chưa đi sâu về phương pháp giảng dạy, có nhiều nội dung chưa phù hợp với đối tượng học sinh ở trường THCS nên nhiều thầy cô giáo gặp khó khăn trong việc tiếp cận, chọn lọc, phân loại các dạng bài tập và cách giải cho từng dạng bài, đặc biệt là phương pháp truyền đạt đến học sinh sao cho phù hợp, sáng tạo để phát triển năng lực của học sinh. Do đó, hiệu quả giảng dạy nội dung chương III (ADN và gen) trong chương trình Sinh học 9 nói chung, chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi nói riêng còn nhiều hạn chế. Xuất phát từ lí do trên, tôi nghiên cứu và thực hiện sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: “Một số phương pháp giải bài tập chương III: ADN và gen nhằm nâng cao chất lượng môn sinh học 9 ở trường THCS Nga Tân”. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Mục đích nghiên cứu đề tài này là nhằm chỉ ra thực trạng của việc dạy và học cách giải bài tập chương III: ADN và gen trong thời gian qua ở trường THCS Nga Tân và giới thiệu cách làm có tính hệ thống nhằm giúp học sinh lớp 9 giải quyết các bài tập về ADN và gen một cách chính xác và nhanh gọn, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn sinh học. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Các phương pháp giải bài tập về ADN và gen, giúp học sinh phân biệt các dạng bài tập về ADN và gen. Hình thành và phát triển kĩ năng giải bài tập về ADN và gen nhằm nâng cao chất lượng môn sinh học 9 ở trường THCS Nga Tân. V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để thực hiện đề tài này tôi sử dụng một số phương pháp sau: 1. Phương pháp quan sát Đây là phương pháp được vận dụng thường xuyên trong từng giờ lên lớp. 2. Phương pháp trao đổi – Để biết được cách học tập của học sinh ở nhà cũng như mức độ tiếp thu bài ở lớp tôi trực tiếp trao đổi với các em. – Trao đổi với đồng nghiệp có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy. 3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm Sau khi áp dụng các phương pháp dạy học một thời gian, tôi tiến hành thống kê kết quả đạt được so sánh với kết quả của lớp không áp dụng đề tài. 4. Phương pháp nghiên cứu tài liệu B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ Sinh học là môn khoa học tự nhiên tập trung nghiên cứu đặc điểm cấu trúc, chức năng, sự phát triển, tập tính và sự tiến hóa của sinh vật, mối quan hệ giữa chúng với nhau và với môi trường. Đặc thù của môn sinh học là rất gần gũi với đời sống con người, học sinh dễ dàng quan sát các mẫu vật có sẵn trong thiên nhiên để phát hiện và tích luỹ kiến thức sinh học cho bản thân mình. Trong chương trình Sinh học lớp 9, chương III có nội dung mang tính khái quát, trừu tượng đòi hỏi giáo viên phải sâu về chuyên môn, thuần thục về phương pháp nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của giáo dục. Ngoài việc dạy kiến thức lí thuyết, giáo viên còn phải dạy học sinh phương pháp giải bài tập. Thông qua bài tập về ADN và gen môn sinh học 9 giúp học sinh củng cố, khắc sâu kiến thức đã học, phát triển kĩ năng vận dụng kiến thức vào giải bài tập, kĩ năng trình bày, kĩ năng tính toán Từ đó nâng cao năng lực tư duy, óc tưởng tượng, sáng tạo, rèn khả năng phán đoán, suy luận của học sinh. Để học và giải quyết tốt các bài tập về ADN và gen học sinh cần đạt được những yêu cầu sau: Một là, học sinh cần nắm vững kiến thức cơ bản về đặc điểm cấu tạo của gen (ADN), ARN và prôtêin bao gồm: + Cấu tạo hóa học của phân tử ADN (phần I, bài 15, SGK Sinh học 9). + Mô hình cấu trúc không gian phân tử ADN của J.Oatxơn và F.Crick công bố năm 1953 (hình 15, trang 45 SGK Sinh học 9). + Đặc điểm cấu tạo hóa học phân tử ARN (phần I, bài 17 SGK Sinh học 9), mô hình cấu trúc bậc 1 phân tử ARN (hình 17.1, trang 51 SGK Sinh học 9). + Cấu trúc của prôtêin (phần I, bài 18 SGK Sinh học 9). Hai là, học sinh cần hiểu rõ và trình bày được diễn biến, các nguyên tắc chi phối, cơ chế, kết quả của các quá trình sau: + Quá trình tự nhân đôi của ADN (phần I, bài 16 SGK Sinh học 9). + Quá trình phiên mã tổng hợp ARN (phần II, bài 17 SGK Sinh học 9). + Quá trình giải mã tổng hợp prôtêin (phần I, bài 19 SGK Sinh học 9). Ba là, học sinh phải thiết lập và ghi nhớ được hệ thống các công thức tính toán cần sử dụng giải bài tập về ADN và gen, biết cách vận dụng linh hoạt vào từng bài toán với những yêu cầu cụ thể. Từ những căn cứ trên và yêu cầu thực tiễn nhằm không ngừng nâng cao chất lượng bộ môn, việc áp dụng “Một số phương pháp giải bài tập chương III: ADN và gen” vào giảng dạy sinh học 9 trở thành một nhu cầu cấp thiết hiện nay. II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ Bài tập về ADN và gen có nhiều dạng bài, mỗi dạng bài có phương pháp giải riêng biệt đòi hỏi học sinh phải nắm vững kiến thức về đặc điểm cấu tạo của ADN (gen) và các công thức tính toán cụ thể. Trong các đề thi học sinh giỏi Sinh lớp 9, thi tuyển sinh vào lớp 10 luôn đòi hỏi học sinh phải biết giải quyết các dạng toán này. Tuy nhiên hiện nay, đa số học sinh lớp 9 ở trường THCS Nga Tân chưa biết hệ thống hóa các dạng bài tập, ít được bồi dưỡng về cách giải, kĩ năng làm bài tập về ADN và gen của học sinh còn rất yếu. Học sinh tỏ ra lúng túng, không giải được những bài tập sinh học cơ bản về ADN và gen. Nhiều em học sinh có biểu hiện giảm niềm đam mê với môn Sinh học, chất lượng bộ môn vì thế cũng giảm sút. Qua tìm hiểu, tôi phát hiện một số nguyên nhân cơ bản sau: Một là, các em đã quen với phương pháp học môn sinh học ở các lớp dưới theo hướng trả lời các câu hỏi lí thuyết là chủ yếu, chưa tìm được mối quan hệ mật thiết logic giữa lí thuyết và bài tập. Hai là, phân phối chương trình hiện hành quy định thời gian dành cho việc luyện giải bài tập trên lớp quá ít trong khi lượng kiến thức ở mỗi tiết học lại nhiều, hầu hết giáo viên không có đủ thời gian để hướng dẫn các em một cách chi tiết, có hệ thống. Ba là, điều kiện kinh tế xã hội ở địa phương gặp nhiều khó khăn. Với đặc điểm là một xã ven biển có nhiều hộ nghèo, 95% học sinh trong trường đều là con các gia đình nông dân thuần túy. Nhiều học sinh có bố mẹ đi làm ăn xa, do đó sự quan tâm đến việc học hành của con em chưa thỏa đáng. Học sinh thiếu tài liệu bồi dưỡng, không được tạo các điều kiện thuận lợi cho việc học tập. Bốn là, kiến thức sinh học về ADN và gen rất đa dạng, trừu tượng, khó nắm bắt. Mỗi dạng bài tập khác nhau đều có những đặc trưng và cách giải riêng. Bên cạnh đó SGK không cung cấp hệ thống các công thức cần thiết để giải bài tập. Điều đó làm một bộ phận các thầy cô giáo gặp khó khăn trong việc phân loại các dạng bài tập và lựa chọn phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. Năm là, về phía nhà trường. Hiện nay, trường THCS Nga Tân chỉ có 2 giáo viên dạy Sinh học nên việc học hỏi, hỗ trợ lẫn nhau về chuyên môn có nhiều hạn chế. Cơ sở vật chất của nhà trường còn nhiều khó khăn, chưa có các phòng thực hành, thí nghiệm; đồ dùng, thiết bị dạy học còn thiếu nên việc tương tác giữa giáo viên và học sinh trong các giờ học chưa đạt được hiệu quả như mong đợi. Kết quả bài kiểm tra một tiết môn sinh học trước khi áp dụng vào giảng dạy “Một số phương pháp giải bài tập chương III: ADN và gen” đối với học sinh lớp 9 trường THCS Nga Tân năm học 2017 – 2018 phản ánh rõ nét năng lực giải bài tập về ADN và gen rất hạn chế, thể hiện qua tỉ lệ học sinh giỏi thấp, tỉ lệ học sinh yếu kém quá cao: TT Lớp Số HS Đánh giá năng lực Giỏi Khá TB Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 1 9A 41 1 2,4 6 14,7 21 51,2 8 19,5 5 12,2 2 9B 40 1 2,5 4 10,0 19 47,5 11 27,5 5 12,5 3 Tổng 81 1 2,5 10 12,3 40 49,4 17 23,5 10 12,3 Với mục tiêu giúp học sinh khắc sâu kiến thức, nắm vững phương pháp và hoàn thiện kĩ năng giải bài tập, khơi dậy sự hứng thú với bộ môn, tôi viết sáng kiến: “Một số phương pháp giải bài tập chương III: ADN và gen nhằm nâng cao chất lượng môn sinh học 9 ở trường THCS Nga Tân”. III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Để học sinh giải quyết tốt bài tập chương III (ADN và gen) một phần tôi lồng ghép trong giờ học lý thuyết trên lớp. Phần lớn thời gian còn lại là bồi dưỡng vào các chiều thứ 3, thứ 5 và thứ 7 hàng tuần. Phân loại bài tập thành các dạng, hướng dẫn học sinh phương pháp giảng của từng dạng bài, sau đó học sinh vận dụng vào từng bài tập cụ thể với nhiều phương pháp dạy học tích cực. Đối với nội dung “Vận dụng giảng dạy trên lớp” tôi tổ chức cho học sinh giải quyết các bài toán điển hình bằng sự kết hợp các phương pháp dạy học tích cực như: Hoạt động nhóm, khăn trải bàn, học tập cá nhân phát triển tư duy … Đối với nội dung “Bài tập tự luyện” tôi hướng dẫn cho học sinh chủ động vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các bài tập cụ thể thông qua hai phương pháp chủ yếu là tự học và dạy học theo hợp đồng (giao nhiệm vụ về nhà). Sau đây tôi trình bày các nhóm giải pháp và tổ chức thực hiện. 1. Dạng 1: Xác định trình tự nuclêôtit của gen (ADN) và ARN. 1.1. Kiến thức cần nhớ – Xác định trình tự nuclêôtit trên mạch còn lại của ADN (gen): Căn cứ nguyên tắc cấu tạo của ADN, các đơn phân của hai mạch liên kết với nhau theo nguyên tắc bổ sung (NTBS): A liên kết với T, G liên kết với X và ngược lại. – Xác định trình tự nuclêôtit trên ARN: Căn cứ cơ chế quá trình phiên mã, phân tử ARN chỉ được tổng hợp từ mạch gốc của gen theo nguyên tắc bổ sung. Mạch ARN được tổng hợp có trình tự các nuclêôtit tương ứng với trình tự các nuclêôtit trên mạch gốc của gen theo nguyên tắc bổ sung, hay giống với trình tự các nuclêôtit trên mạch bổ sung của gen, chỉ khác T được thay thế bằng U: Mạch gốc của gen Mạch bổ sung của gen ARN được tổng hợp A T G X T A X G U A X G 1.2. Vận dụng giảng dạy trên lớp – Phạm vi áp dụng: Sau khi học xong tiết 17, bài 17 – Sinh học 9 Hoạt động của GV – HS Nội dung – GV hướng dẫn HS ? Bài tập cho biết thông tin gì ? Yêu cầu của bài toán là gì ? Để xác định được trình tự nuclêôtit tương ứng trên mạch bổ sung ta cần sử dụng kiến thức nào – HS cần trả lời được: + Đề bài cho biết trình tự nuclêôtit một đoạn mạch của gen + Để xác định mạch bổ sung cần nắm được nguyên tắc bổ sung. – HS trình bày lời giải. – GV nhận xét, chốt nội dung bài toán. – GV lưu ý: Trình tự nuclêôtit mARN giống trình tự nuclêôtit của mạch bổ sung, chỉ thay T bằng U. – GV hướng dẫn HS khai thác bài ? Bài toán cho biết thông tin gì ? Nêu yêu cầu của bài toán ? Em hãy cho biết mối tương quan về số lượng, trình tự các nulêôtit giữa trên phân tử mARN và mạch gốc của gen ? Dựa vào đoạn mARN đã cho, em hãy xác định trình tự nuclêôtit tương ứng trên mạch gốc của gen + Bài toán cho biết trình tự nuclêôtit một đoạn phân tử mARN + Về tương quan: Các nuclêôtit trên mARN và mạch gốc của gen có số lượng bằng nhau, có trình tự tuân thủ NTBS trong phiên mã tổng hợp mARN Mạch gốc của gen mARN A T G X U A X G – GV đặt vấn đề: ? Để xác định trình tự nuclêôtit tương ứng trên mạch bổ sung của gen khi biết trình tự nuclêôtit tương ứng trên mạch gốc ta vận dụng kiến thức nào – HS cần chỉ rõ được: Các nuclêôtit trên 2 mạch đơn của gen liên kết với nhau theo nguyên tắc bổ sung : A – T, G – X và ngược lại. – HS trình bày lời giải. – GV nhận xét, chốt nội dung bài toán. Bài toán 1: Một gen chứa đoạn mạch gốc có trình tự nuclêôtit là: … A- G – X – T – T – A – G – X – A… Xác định trình tự nuclêôtit tương ứng trên mạch bổ sung của gen và phân tử mARN được tổng hợp từ đoạn gen này. Giải: Theo bài ra: – Mạch bổ sung của gen: T – X – G – A – A – T – X – G – T – Đoạn mARN do gen tổng hợp nên: U – X – G – A – A – U – X – G – U Bài toán 2: Một đoạn mạch phân tử mARN có trình tự nuclêôtit là: … A- G – X – U – A – U – G – X – A Xác định trình tự nuclêôtit tương ứng của gen tổng hợp phân tử mARN đó. Giải: Theo nguyên tắc bổ sung trong quá trình tổng hợp mARN thì trình tự nuclêôtit tương ứng của gen cần xác định là: – Mạch gốc của gen: … T – X – G – A – T – A – X – G – T … – Mạch bổ sung của gen: … A – G – X – T – A – T – G – X – A … 1.3. Bài tập tự luyện Bài 1: Một gen chứa đoạn mạch bổ sung có trình tự nuclêôtit là: … G – A – X – T – X – A – G – T – A… Xác định trình tự nuclêôtit tương ứng trên mạch bổ sung của gen và phân tử mARN được tổng hợp từ đoạn gen này. Hướng dẫn: Mạch bổ sung của gen: X – A – G – A – G – T – X – A – T Mạch mARN: X – A – G – A – G – U – X – A – U Bài 2: Một gen chứa đoạn mạch 9 cặp nuclêôtit có cấu trúc như sau: Mạch gốc: … T – ? – A – T – ? – ? – X – ? – A … Mạch bổ sung: … ? – G – ? – ? – X – X – ? – G – ? … Xác định trình tự nuclêôtit của đoạn gen và phân tử mARN được tổng hợp từ đoạn gen này. Hướng dẫn: Mạch gốc của gen: … T – X – A – T – G – G – X – X – A… Mạch bổ sung của gen: … A – G – T – A – X – X – G – G – T Mạch mARN: … A – G – U – A – X – X – G – G – U Bài 3: Một đoạn mạch phân tử mARN có trình tự nuclêôtit là: … U – X – G – X – A – U – A – G – X – A – U – G Xác định trình tự nuclêôtit tương ứng của gen tổng hợp phân tử mARN đó. Hướng dẫn: Mạch gốc của gen: …A – G – X – G – T – A – T – X – G – T – A – X … Mạch bổ sung của gen: …T – X – G – X – A – T – A – G – X – A – T – G 2. Dạng 2: Xác định số lượng nuclêôtit, chiều dài, khối lượng, số liên kết hiđrô của gen. 2.1. Kiến thức cần nhớ – Tính chiều dài gen: – Số chu kì xoắn trên gen: – Số nuclêôtit của gen : – Số liên kết hiđrô của gen: H = 2A + 3G – Khối lượng phân tử ADN (gen): M = N 300. – Số liên kết phôtpho đieste: + Số liên kết phôtpho đieste trên một mạch là: N – 1. + Số liên kết phôtpho đieste trên cả phân tử ADN là: 2(N – 1) = 2N – 2 – Sự tái bản của gen. Gọi số lần tái bản của gen là k. + Số gen con được tạo ra: 2k. + Số gen con có 2 mạch hoàn toàn mới được tạo ra: 2k – 1. + Số nuclêôtit trong các gen con: N2k + Số nuclêôtit môi trường cung cấp: N(2k – 1) + Số liên kết hiđrô bị phá hủy: Hphá hủy = H(2k - 1). + Số liên kết hiđrô hình thành: Hhình thành = H2k – Tương quan số lượng nuclêôtit trong gen: + Trên từng mạch: Về số lượng Về tỉ lệ Mạch gốc (mạch 1) Mạch bổ sung (mạch 2) Mạch gốc (mạch 1) Mạch bổ sung (mạch 2) A1 = T2 %A1 = % T2 T1 = A2 % T1 = % A2 G1 = X2 % G1 = % X2 X1 = G2 % X1 = % G2 Hệ quả : A = T = A1 + A2 = T1 + T2 = A1 + T1 = A2 + T2 G = X = G1 + G2 = X1 + X2 = G1 + X1 = G2 + X2 + Trên gen: A = T; G = X → A + G = T + X %A = %T, %G = %X → %A + %G = %T + %X = 50% 2.2. Vận dụng giảng dạy trên lớp – Phạm vi áp dụng: + Bài toán 1: Sau khi học xong tiết 15, bài 15 – Sinh học 9. + Bài toán 2, 3: Sau khi học xong tiết 16, bài 16 – Sinh học 9. Hoạt động của GV – HS Nội dung – HS đọc đề bài. – GV hướng dẫn HS xác định số lượng từng loại nuclêôtit trên gen. ? Bài toán cho biết những thông tin gì ? Yêu cầu của bài toán là gì ? Từ chiều dài của gen, em hãy nêu công thức tính số nuclêôtit của gen Từ chiều dài gen → số nuclêôtit của gen theo công thức: – GV hướng dẫn HS khai thác bài : ? Các loại nuclêôtit trong gen có mối quan hệ như thế nào với nhau về số lượng và tỉ lệ phần trăm ? Từ thông tin %A = 20%, em hãy xác định tỉ lệ % và số lượng từng loại nuclêôtit còn lại trong gen. Trong gen thì: A = T, G = X %A = %T, %G = %X – HS tiến hành giải yêu cầu 1 của bài tập theo hướng khai thác trên. – GV nhận xét, sửa lỗi (nếu có), hoàn thiện bài giải. – GV hướng dẫn HS giải quyết các nội dung còn lại của bài tập. ? Em hãy nêu công thức để xác định: + Số liên kết hiđrô và khối lượng của gen + Số chu kỳ xoắn của gen. – HS nêu các công thức sử dụng, vận dụng tính toán theo yêu cầu bài toán. – GV nhận xét, sửa lỗi (nếu có), hoàn thiện bài giải. – GV hướng dẫn HS xác định số lượng từng loại nuclêôtit trên gen: ? Nêu mối tương quan về số lượng các loại nuclêôtit trong gen ? Hãy xác định số lượng từng loại nuclêôtit của gen – HS cần xác định được: + Mối quan hệ về số lượng các loại nuclêôtit của gen là: A = T, G = X. + Rút ra công thức: A = T = – HS tiến hành giải yêu cầu 1 của bài tập theo hướng khai thác trên. – GV nhận xét, sửa lỗi (nếu có), hoàn thiện bài giải. – GV hướng dẫn HS giải quyết các nội dung còn lại của bài tập (từ 2 đến 4). ? Nêu công thức nào để xác định : + Số gen con được tạo thành. + Số nuclêôtit trong các gen con + Số nuclêôtit môi trường cung cấp. – HS nêu các công thức sử dụng, vận dụng tính toán theo yêu cầu bài toán. – GV nhận xét, hoàn thiện bài giải. – GV chia nhóm học tập, yêu cầu HS hoạt động nhóm hoàn thiện nội dung bài toán 3. – GV hỗ trợ các nhóm khai thác thông tin bài toán về các nội dung sau: + Mối tương quan về số lượng giữa các loại nuclêôtit trên 2 mạch đơn của gen: A1 = T2, T1 = A2, G1 = X2, X1 = G2. + Mối quan hệ về tỉ lệ % giữa các loại nuclêôtit trong gen: %A = %T, %G = %X %A + %G = %T + %X = 50% – HS các nhóm tiến hành giải bài toán, báo cáo kết quả. – GV nhận xét, chốt nội dung bài toán. – HS hoàn thiện bài toán 3. Bài toán 1: Một gen có chiều dài là 5100, số nuclêôtit loại Ađênin chiếm 20%. Hãy xác định: 1. Số lượng từng loại nuclêôtit trên gen. 2. Số liên kết hiđrô và khối lượng của gen 3. Số chu kỳ xoắn của gen. Giải: 1. Số nuclêôtit của gen: N = = 3000 (nu) Theo NTBS ta có : %A = %T = 20
Giải Bài Tập Môn Sinh Học Lớp 9 Trang 50: Adn Và Bản Chất Của Gen
Giải bài tập môn Sinh học lớp 9 trang 50: ADN và bản chất của gen – chúng tôi xin giới thiệu tới các em học sinh cùng quý phụ huynh Giải bài tập trang 50 SGK Sinh lớp 9: ADN và bản chất của gen để tham khảo chuẩn bị tốt cho bài giảng học kì mới sắp tới đây của mình. Mời quý phụ huynh và các em học sinh tham khảo.
Giải bài tập môn Sinh học lớp 9 trang 50: ADN và bản chất của gen
Bài 1: (SGK Sinh 9 – ADN và bản chất của gen)
Mô tả sơ lược quá trình tự nhân đôi của ADN
Đáp án và hướng dẫn giải bài 1:
Quá trình tự nhân đôi của ADN xảy ra trong nhân tế bào, tại kì trung gian lúc NST ở dạng sợi mảnh.
* Sơ lược quá trình tự nhân đôi của ADN:
Dưới tác dụng của 1 loại enzim, 2 mạch đơn tách nhau ra từ đầu nọ tới đầu kia. Mỗi mạch được dùng làm khuôn để tổng hợp nên mạch mới
Dưới tác dụng của 1 loại enzim khác, các Nu trên 2 mạch khuôn liên kết với các Nu tự do trong môi trường nội bào theo NTBS 2 mạch đơn mới của 2 ADN con dần đc hình thành dựa trên mạch khuôn của ADN mẹ theo hướng ngược nhau
Kết quả từ một phân tử ADN mẹ ban đầu hình thành 2 phân tử ADN con giống nhau và giống hết phân tử ADN mẹ (mỗi phân tử ADN con mang 1 mạch của ADN mẹ và một mạch đơn mới từ MT nội bào)
Quá trình tự nhân đôi của ADN còn gọi là quá trình tự sao. Chính sự nhân đôi của ADN là cơ sở của sự tự nhân đôi NST.
Bài 2: (SGK Sinh 9 – ADN và bản chất của gen)
Giải thích vì sao 2 ADN con được tạo ra qua cơ chế nhân đôi lại giống ADN mẹ?
Đáp án và hướng dẫn giải bài 2:
2 ADN con đc tạo ra qua cơ chế nhân đôi giống hệt ADN mẹ vì ADN tự nhân đôi theo NTBS, NT khuôn mẫu và nguyên tắc bán bảo toàn (nt giữ lại 1 nửa)
Nguyên tắc khuôn mẫu: Khi ADN tự nhân đôi, 2 mạch đơn của ADN mẹ tách nhau ra, mỗi mạch được dùng làm khuôn để tổng hợp nên mạch mới.
Giải bài tập môn Sinh học lớp 9 trang 50: ADN và bản chất của gen
Bạn đang xem bài viết Giải bài tập môn Sinh học lớp 9 trang 50: ADN và bản chất của gen. Bài viết được tổng hợp bởi website https://dethithuvn.com
Để có đầy đủ, chi tiết và đúng định dạng, bạn vui lòng tải về để xem. Đừng quên theo dõi Đề Thi Thử Việt Nam trên Facebook để nhanh chóng nhận được thông tin mới nhất hàng ngày.
Tags: ADN và bản chất của gen, Giải bài tập môn Sinh học lớp 9, Giải bài tập môn Sinh học lớp 9 trang 50, sinh học 9, sinh học lớp 9Chia sẻ
Đề Tài Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 5
ợc vận dụng kiến thức và rèn luyện kỹ năng thực hành vào thực tiễn. -Giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kỹ năng suy luận, khêu gợi và tập dượt khả năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi. -Rèn luyện cho học sinh những đặc tính và phong cách làm việc của người lao động, như: cẩn thận, chu đáo, cụ thể..... Ở học sinh lớp 5, kiến thức toán đối với các em không còn mới lạ, khả năng nhận thức của các em đã được hình thành và phát triển ở các lớp trước, tư duy đã bắt đầu có chiều hướng bền vưỡng và đang ở giai đoạn phát triển. Vốn sống, vốn hiểu biết thực tế đã bước đầu có những hiểu biết nhất định. Tuy nhiên trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều, yêu cầu đặt ra khi giải các bài toán có lời văn cao hơn những lớp trước, các em phải đọc nhiều, viết nhiều, bài làm phải trả lời chính xác với phép tính, với các yêu cầu của bài toán đưa ra, nên thường vướng mắc về vấn đề trình bày bài giải: sai sót do viết không đúng chính tả hoặc viết thiếu, viết từ thừa. Một sai sót đáng kể khác là học sinh thường không chú ý phân tích theo các điều kiện của bài toán nên đã lựa chọn sai phép tính. Với những lý do đó, trong học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp Năm nói riêng, việc học toán và giải toán có lời văn là rất quan trọng và rất cần thiết. Để thực hiện tốt mục tiêu đó, giáo viên cần phải nghiên cứu, tìm biện pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em giải bài toán một cách vững vàng, hiểu sâu được bản chất của vấn đề cần tìm, mặt khác giúp các em có phương pháp suy luận toán lôgic thông qua cách trình bày, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện. Từ đó giúp các em hứng thú, say mê học toán. Từ những căn cứ đó chúng tôi đã chọn đề tài " Một số biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5'' để nghiên cứu, với mục đích là: - Tìm hiểu nội dung, chương trình và những phương pháp dùng để giảng dạy toán có lời văn. - Tìm hiểu những kỹ năng cơ bản cần trang bị để phục vụ việc giải toán có lời văn cho học sinh lớp Năm. - Khảo sát và hướng dẫn giải cụ thể một số bài toán, một số dạng toán có lời văn ở lớp Năm, từ đó đúc rút kinh nghiệm, đề xuất một số ý kiến góp phần nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn. II NỘI DUNG A. CƠ SỞ KHOA HỌC: 1 / Cơ sở lý luận: Giải toán là một thành phần quan trọng trong chương trình giảng dạy môn toán ở bậc tiểu học. Nội dung của việc giải toán gắn chặt một cách hữu cơ với nội dung của số học và số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản và các yếu tố đại số, hình học có trong chương trình. Vì vậy, việc giải toán có lời văn có một vị trí quan trọng thể hiện ở các điểm sau: a) Các khái niệm và các quy tắc về toán trong sách giáo khoa, nói chung đều được giảng dạy thông qua việc giải toán. Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm hạc thiếu sót của các em về kiến thức, kỹ năng và tư duy để giúp các em phát huy hoặc khắc phục. b) Việc kết hợp học và hành, kết hợp giảng dạy với đời sống được thực hiện thông qua việc cho học sinh giải toán, các bài toán liên hệ với cuộc sống một cách thích hợp giúp học sinh hình thành và rèn luyện những kỹ năng thực hành cần thiết trong đời sống hàng ngày, giúp các em biết vận dụng những kỹ năng đó trong cuộc sống. c) Việc giải toán góp phần quan trọng trong việc xây dựng cho học sinh những cơ sở ban đầu của lòng yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, thế giới quan duy vật biện chứng: việc giải toán với những đề tài thích hợp, có thể giới thiệu cho các em những thành tựu trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta và các nước Anh em, trong công cuộc bảo vệ hoà bình của nhân dân thế giới, góp phần giáo dục các em ý thức bảo vệ môi trường, phát triển dân số có kế hoạch v.v... Việc giải toán có thể giúp các em thấy được nhiều khái niệm toán học, ví dụ: các số, các phép tính, các đại lượng v.v... đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được các mối quan hệ biện chứng giữa các dữ kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm v.v.. d) Việc giải toán góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính tốt của con người lao động mới. Khi giải một bài toán, tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực vì các em cần phân biệt cái gì đã cho và caí gì cần tìm, thiết lập các mối liên hệ giữa các dữ kiện giữa cái đã cho và cái phải tìm; Suy luận, nêu nên những phán đoán, rút ra những kết luận, thực hiện những phép tính cần thiết để giải quyết vấn đề đặt ra v.v... Hoạt động trí tuệ có trong việc giải toán góp phần giáo dục cho các em ý trí vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, chu đáo làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo v.v... * Nội dung chương trình Toán lớp 5: 1/ Ôn tập về số tự nhiên. 2/ Ôn tập về các phép tính số tự nhiên. 3/ Dấu hiệu chia hết cho 2, 5, 3, 9. 4/ Phân số( ôn tập bổ sung). 5/ Các phép tính về phân số. 6/ Số thập phân. 7/ Các phép tính về số thập phân. 8/ Hình học - chu vi, điện tích, thể tích của một hình. 9/ Số đo thời gian - Toán chuyển động đều. 2/ Cơ sở thực tiễn: Đề bài của bài toán có lời văn bao giờ cũng có hai phần: - Phần đã cho hay còn gọi giả thiết của bài toán. - Phần phải tìm hay còn gọi kết luận của bài toán. Ngoài ra, trong đề toán có nêu mối quan hệ giữa phần đã cho và phần phải tìm hay thực chất là mối quan hệ tương quan phụ thuộc vào giả thiết và kết luận của bài toán. Quy trình giải toán có lời văn thường thông qua các bước sau: - Nghiên cứu kỹ đầu bài: Trước hết cần đọc cẩn thận đề toán, suy nghĩ về ý nghĩa bài toán, nội dung bài toán, đặc biệt chú ý đến câu hỏi bài toán. Chớ vội tính toán khi chưa đọc kỹ đề toán. - Thiết lập mối quan hệ giữa các số đã cho và diễn đạt nội dung bài toán bằng ngôn ngữ hoặc tóm tắt điều kiện bài toán, hoặc minh hoạ bằng sơ đồ hình vẽ. - Lập kế hoạch giải toán: học sinh phải suy nghĩ xem để trả lời câu hỏi của bài toán phải thực hiện phép tính gì? Suy nghĩ xem từ số đã cho và điều kiện của bài toán có thể biết gì, có thể làm tính gì, phép tính đó có thể giúp trả lời câu hỏi của bài toán không? Trên các cơ sở đó, suy nghĩ để thiết lập trình tự giải toán. - Thực hiện phép tính theo trình tự đã thiết lập để tìm đáp số. Mỗi khi thực hiện phép tính cần kiểm tra đã tính đúng chưa? Phép tính được thực hiện có dựa trên cơ sở đúng đắn không?... Giải xong bài toán, khi cần thiết, cần thử xem đáp số tìm được có trả lời đúng câu hỏi của bài toán, có phù hợp với các điều kiện của bài toán không? Trong một số trường hợp, giao viên nên khuyến khích học sinh tìm xem có cách giải khác gọn hay không? Ví dụ 1: Thùng to có 21 lít nước mắm, thùng bé có 15 lít nước mắm. Nước mắm được chứa vào các chai như nhau, mỗi chai có 0,75 lít. Hỏi có tất cả bao nhiêu chai nước mắm? Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện bài toán trên bằng cách dùng phương pháp hỏi đáp, kết hợp với minh hoạ bằng tóm tắt đề toán. + Phân tích nội dung bài toán: Giáo viên dùng hai câu hỏi: Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì? Để học sinh thấy rõ nội dung: - Thùng to có 21 lít nước mắm. - Thùng nhỏ có 15 lít nước mắm. - Mỗi chai chứa 0,75 lít nước mắm. - Hỏi có tất cả bao nhiêu chai nước mắm ? + Tóm tắt bài toán: Theo những câu trả lời của học sinh, giao viên hướng dẫn học sinh tóm tắt như sau: Thùng to: 21 lít. Thùng nhỏ : 15 lít. Có ... chai nước mắm ? Tóm tắt trên chính là chỗ dựa cho học sinh tìm ra trình tự giải và phép tính tương ứng. + Thiết lập trình tự giải: Giao viên đặt câu hỏi: " Muốn biết có bao nhiêu chai nước mắm, ta làm thế nào?" Học sinh trả lời: " Trước hết ta phải tìm tổng số nước mắm có ở cả hai thùng; sau đó mới tìm tổng số chai đựng nước mắm". + Tìm phép tính và thực hiện phép tính: Học sinh tự đặt lời giải và làm như sau: Bài giải Tổng số nước mắm ở hai thùng là: 21 + 15 = 36 (lít ) Số chai đựng nước mắm là: 36 : 0,75 = 48 ( chai) Đáp số: 48 chai. B . CÁC PHƯƠNG PHÁP DÙNG ĐỂ DẠY GIẢI BÀI TOÁN CÓ LỜI VĂN: 1/ Phương pháp trực quan: Nhận thức của trẻ từ 6 đến 11 tuổi còn mang tính cụ thể , gắn với các hình ảnh và hiện tượng cụ thể, trong khi đó kiến thức của môn toán lại có tính trừu tượng và khái quát cao. Sử dụng phương pháp này giúp học sinh có chỗ dựa cho hoạt động tư duy, bổ xung vốn hiểu biết, phát triển tư duy trừu tượng và vốn hiểu biết. Ví dụ: khi dạy giải toán ở lớp Năm, giáo viên có thể cho học sinh quan sát mô hình hoặc hình vẽ, sau dó lập tóm tắt đề bài qua, rồi mới đến bước chọn phép tính. 2/ Phương pháp thực hành luyện tập: Sử dụng phương pháp này để thực hành luyện tập kiến thức, kỹ năng giải toán từ đơn giản đến phức tạp ( Chủ yếu ở các tiết luyện tập ). Trong quá trình học sinh luyện tập, giáo viên có thể phối hợp các phương pháp như: gợi mở - vấn đáp và cả giảng giải - minh hoạ. 3/ Phương pháp gợi mở - vấn đáp: Đây là phương pháp rất cần thiết và thích hợp với học sinh tiểu học, rèn cho học sinh cách suy nghĩ, cách diễn đạt bằng lời, tạo niềm tin và khả năng học tập của từng học sinh. 4/ Phương pháp giảng giải - minh hoạ: Giáo viên hạn chế dùng phương pháp này. Khi cần giảng giải - minh hoạ thì giáo viên nói gọn, rõ và kết hợp với gợi mở - vấn đáp. Giáo viên nên phối hợp giảng giải với hoạt động thực hành của học sinh ( Ví dụ: Bằng hình vẽ, mô hình, vật thật...) để học sinh phối hợp nghe, nhìn và làm. 5/ Phương pháp sơ đồ đoạn thẳng: Giáo viên sử dụng sơ đồ đoạn thẳng để biểu diễn các đại lượng đã cho ở trong bài và mối liên hệ phụ thuộc giữa các đại lượng đó. Giáo viên phải chọn độ dài các đoạn thẳng một cách thích hợp để học sinh dễ dàng thấy được mối liên hệ phụ thuộc giữa các đại lượng tạo ra hình ảnh cụ thể để giúp học sinh suy nghĩ tìm tòi giải toán. C . MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢI CÁC BÀI TOÁN CÓ LỜI VĂN Ở LỚP 5: Muốn phân tích được tình huống, lựa chọn phép tính thích hợp, các em cần nhận thức được: cái gì đã cho, cái gì cần tìm, mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm. Trong bước đầu giải toán, việc nhận thức này, việc lựa chọn phép tính thích hợp đối với các em là một việc khó. Để giúp các em khắc phục khó khăn này, cần dựa vào các hoạt động cụ thể của các em với vật thật, với mô hình, dựa vào hình vẽ , các sơ đồ toán học.... nhằm làm cho các em hiểu khái niệm " gấp " với phép nhân, khái niệm " một phần ... " với phép chia" trong tương quan giữa các mối quan hệ trong bài toán. Trong một bài toán, câu hỏi có một chức năng quan trọng vì việc lựa chọn phép tính thích hợp được quy định không chỉ bởi các dữ kiện mà còn bởi các câu hỏi. Với cùng các dữ kiện như nhau có thể đặt các câu hỏi khác nhau do đó việc lựa chọn phép tính cũng khác nhau, việc thấu hiểu câu hỏi của bài toán là điều kiện căn bản để giải đúng bài toán đó. Nhưng trẻ em ở giai đoạn đầu khi mới giải toán chưa nhận thức được đầy đủ chức năng của câu hỏi trong bài toán. Để rèn luyện cho các em suy luận đúng, cần giúp các em nhận thức được chức năng quan trọng của câu hỏi trong bài toán. Muốn vậy có thể dùng biện pháp: thường xuyên gợi cho các em phân tích đề toán để xác định cái đã cho, cái phải tìm, các dữ kiệm của bài toán , câu hỏi của bài toán, đôi khi nêu cho các em bài toán vui không giải được, chẳng hạn: " trên cành cây có 10 con chim, người thợ săn bắn rơi 2 con. Hỏi trong lồng còn mấy con chim?" có em sẽ nhẩm và trả lời là 8 con, lúc đó giáo viên sẽ giải thích để học sinh nhận ra cái sai trong câu hỏi của bài toán. Đối với toán có lời văn ở lớp 5, chủ yếu là các bài toán hợp, giải bài toán cũng có nghĩa là giải quyết các bài toán đơn. Mặt khác các dạng toán đều đã được học ở các lớp trước, bao gồm hai nhóm chính như sau: a) Nhóm 1: Các bài toán hợp mà quá trình giải không theo một phương pháp thống nhất cho các bài toán đó. b) Nhóm 2: Các bài toán điển hình, các bài toán mà trong quá trình giải có phương pháp riêng cho từng dạng bài toán. Trong chương trình toán 5 có những dạng toán điển hình sau: - Tìm số trung bình cộng. - Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó. - Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó. - Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ số của hai số đó. Người giáo viên phải nắm vững các dạng toán để khi hướng dẫn học sinh giải toán sẽ tổ chức cho học sinh trước hết xác định dạng toán để có cách giải phù hợp. Giải toán là một hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp. Hình thành kỹ năng giải toán khó hơn nhiều so với hình thành kỹ năng tính vì bài toán là sự kết hợp đa dạng nhiều khái niệm, nhiều quan hệ toán học. Giải toán không chỉ là nhớ mẫu để rồi áp dụng , mà đòi hỏi nắm chắc khái niệm, quan hệ toán học, nắm chắc ý nghĩa của phép tính, đòi hỏi khả năng độc lập suy luận của học sinh, đòi hỏi biết tính đúng. Các bước để giải một bài toán có lời văn ở tiểu học nói chung và lớp Năm nói riêng đã được đề cập ở một số sách về phương pháp giải toán ở bậc tiểu học. ở đây tôi rút ra một số kinh nghiệm hướng dẫn: Phần dạy toán có lời văn ở lớp Năm. Ở lớp 5 việc học phân số, học số thập phân, học về các đơn vị đo đại lượng ... cũng được kết hợp học các phép tính, học giải toán được kết hợp một cách hữu cơ để có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau. Việc dạy cho học sinh nắm được phương pháp chung để giải toán được chú trọng ngay từ khi các em giải bài toán đầu tiên ở đầu bậc tiểu học và sau này vẫn được thường xuyên quan tâm, các em luôn được rèn luyện trong việc tìm hiểu đề toán, trong việc phân tích cái gì đã cho, cái gì phải tìm trong việc suy nghĩ tìm ra cách giải và trong việc thực hiện cách giải. Đặc biệt, các em được thường xuyên sử dụng việc tóm tắt đề toán bằng sơ đồ, hình vẽ. Ví dụ1: Bài 5 ( tr 120 SGK Toán 5) Bài toán về đại lượng tỉ lệ thuận. Một làng lát ngõ, cứ 100 kg xi măng thì lát được 2,5 m. Ngõ làng dài 240 m. Tính số tấn xi măng phải mua ? Bài giải Số xi măng lát một mét ngõ là: 100 : 2,5 = 40 (kg) Số xi măng phải mua để lát ngõ là: 40 x 240 = 9600 (kg) = 9,6 (tấn) Đáp số: 9,6 tấn. Ví dụ 2: Bài 3 ( tr 193 SGK Toán 5) Toán chuyển động đều. Một ô tô đi hết quãng đường dài94,5 km với vận tốc 42 km / giờ. Hỏi ô tô đó đã đi hết bao nhiêu giờ và bao nhiêu phút ? Bài giải Thời gian ô tô đi hết quãng đường là: 94,5 : 42 = 2,25 (giờ) = 2 giờ 15 phút Đáp số: 2 giờ 15 phút. Ví dụ 3: Bài 4 (tr 125 SGK Toán 5) Toán về tỉ lệ nghịch. Một đội thợ xây dựng có 8 người xây xong một bức tường trong ngày. Hỏi muốn xây xong bức tường đó trong 4 ngày thì cần bao nhiêu thợ xây (sức làm ngang nhau). Tóm tắt: ngày cần: 8 người 4 ngày cần: ? người Bài giải: ngày = ngày Xây xong trong 1 ngày thì cần số thợ là: 8 x = 44 (thợ) Xây xong trong 4 ngày thì cần số thợ là: 44 : 4 = 11 (thợ) Đáp số: 11 thợ. Ví dụ 4:Bài 3 (tr94) Bài toán về nhân số thập phân với số thập phân. Một vườn cây hình chữ nhật có chiều dài 15,62 m, chiều rộng 8,4 m. Tính chu vi và diện tích vườn cây đó. Tóm tắt: Chiều dài: 15,62 m Chiều rộng: 8,4 m Chu vi: ? m; Diện tích: ? Bài giải: Chu vi vườn cây hình chữ nhật là: ( 15,62 + 8,4 ) x 2 = 48,04 (m) Diện tích vườn cây hình chữ nhật là: 15,62 x 8,4 = 131,208 (m2) Đáp số: 1) 48,08 m 2) 131,208 m2 Đối với các bài toán có lời văn như trên, giáo viên nên khuyến khích học sinh tự nêu ra các giả thiết đã biết, cái cần phải tìm, cách tóm tắt bài toán và tìm đường lối giải. Các phép tính giải chỉ là khâu thứ yếu mang tính kĩ thuật. D Một số bài nâng cao dành cho dành cho học sinh khá, giỏi: Đối với những đối tượng học sinh đã giải được và giải thành thạo các bài toán đơn cơ bản, thì việc đưa ra hệ thống bài tập nâng cao là rất quan trọng và cần thiết để cho học sinh có điều kiện phát huy năng lực trí tuệ của mình, vượt xa khỏi tư duy cụ thể mang tính chất ghi nhớ và áp dụng một cách máy móc trong công thức. Qua đó phát triển trí thông minh cho học sinh. Ví dụ 1: Hai người thợ cùng làm chung một công việc thì sau 5 giờ sẽ xong. Sau khi làm được 3 giờ thì người thợ cả bận việc phải nghỉ, chỉ còn người thợ thứ hai phải làm nốt công việc còn lại trong 6 giờ. Hỏi nếu mỗi người thợ làm một mình thì mất mấy giờ mới xong công việc ? Bài giải: Hai người làm chung thì hết 5 giờ mới xong. Vậy mỗi giờ 2 người làm được công việc. Trong 3 giờ, hai người làm được là: x 3 = (công việc) Phân số chỉ công việc người thứ hai làm một mình là: 1 - = (công việc) Mỗi giờ người thứ hai làm được là: : 6 = (giờ) Thời gian người thứ hai làm một mình là: 1 : = 15 (giờ) Mỗi giờ người thứ nhất làm được là: - = (công việc) Thời gian người thứ nhất làm một mình là: 1 : = 7 giờ = 7 giờ 30 phút Đáp số: 1) 7 giờ 30 phút; 2) 15 giờ. Ví dụ 2: Mạnh, Hùng, Dũng và Minh có 1 số quyển vở. Mạnh lấy số vở để dùng, Hùng lấy còn lại, Dũng lấy còn lại, cuối cùng Minh dùng nốt 8 quyển vở. Hỏi lúc đầu cả 4 bạn có tất cả bao nhiêu quyển vở ? Tóm tắt: Mạnh Hùng Dũng Minh 8 vở Bài giải: Số vở của Dũng và Minh là: 8 : 2 x 3 = 12 (quyển) Số vở của Dũng, Minh, và Hùng là: 12 : 2 x 3 = 18 (quyển) Số vở của 4 bạn lúc đầu là: 18 : 2 x 3 = 27 (quyển) Đáp số: 27 quyển. E KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU: Qua một thời gian nghiên cứu đề ra một số biện pháp giải toán có lời văn ở lớp 5, chúng tôi đã mạnh dạn đề xuất với Ban Giám hiệu tổ chức thực hiện chuyên đề toán, về phương pháp, về cách giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 đã được nâng cao và đạt hiệu quả cao. Do vậy đã được triển khai áp dụng thực hiện ở các lớp trong khối 5. - Kết quả đạt được cụ thể ở lớp 5A như sau: Thời gian kiểm tra Tổng số học sinh Kết quả Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % Giữa kỳ I 35 26 74,3 4 11,4 5 14,3 0 0 Cuối kỳ I 35 Từ những kết quả đạt được nêu trên, chúng tôi thấy dạy học giải toán có lời văn ở lớp 5 không những chỉ giúp cho học sinh củng cố vận dụng các kiến thức đã học, mà còn giúp các em phát triển tư duy, sáng tạo trong học toán và biết vận dụng thực thành vào thực tiễn cuộc sống. III KẾT LUẬN - ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ A. KẾT LUẬN: Hướng dẫn và giúp học sinh giải toán có lời văn nhằm giúp các em phát triển tư duy trí tuệ, tư duy phân tích và tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá, rèn luyện tốt phương pháp suy luận lôgic. Bên cạnh đó đây là dạng toán rất gần gũi với đời sống thực tế. Do vậy, việc giảng dạy toán có lời văn một cách hiệu quả giúp các em trở thành những con người linh hoạt, sáng tạo, làm chủ trong mọi lĩnh vực và trong cuộc sống thực tế hàng ngày. Những kết quả mà chúng tôi đã thu được trong quá trình nghiên cứu không phải là cái mới so với kiến thức chung về môn toán ở bậc tiểu học, song lại là cái mới đối với bản thân tôi. Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã phát hiện và rút ra nhiều điều lý thú về nội dung và phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở bậc tiểu học. Chúng tôi tự cảm thấy mình được bồi dưỡng thêm lòng kiên trì, nhẫn lại, sự ham muốn, say xưa với việc nghiên cứu. Tuy nhiên đề tài này của tôi là giai đoạn đầu nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học nên không thể tránh khỏi những kiến khuyết. Chúng tôi mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, của các bạn đồng nghiệp và những ai quan tâm đến vấn đề giải toán có lời văn cho học sinh ở bậc tiểu học nói chung, giải Toán có lời văn ở lớp 5 nói riêng. B . MỘT SỐ ĐỀ XUẤT: Qua thực tế giảng dạy môn toán ở Trường tiểu học nói chung và
Giải Bài Tập Vbt Sinh Học Lớp 9 Bài 16: Adn Và Bản Chất Của Gen
Giải bài tập môn Sinh học lớp 9
Bài tập môn Sinh học lớp 9
Giải bài tập VBT Sinh học lớp 9 bài 16: ADN và bản chất của gen được VnDoc sưu tầm và đăng tải, tổng hợp lý thuyết. Đây là lời giải hay cho các câu hỏi trong sách bài tập nằm trong chương trình giảng dạy môn Sinh học lớp 9. Hi vọng rằng đây sẽ là những tài liệu hữu ích trong công tác giảng dạy và học tập của quý thầy cô và các em học sinh.
Bài tập 1 trang 37-38 VBT Sinh học 9: Quan sát hình 16 SGK và cho biết:
a) Quá trình tự nhân đôi đã diễn ra trên mấy mạch của ADN?
b) Trong quá trình tự nhân đôi, các loại nuclêôtit nào liên kết với nhau thành từng cặp?
c) Sự hình thành mạch mới ở 2 ADN con diễn ra như thế nào?
d) Có những nhận xét gì về cấu tạo giữa 2 ADN con và ADN mẹ?
Trả lời:
a) Quá trình tự nhân đôi đã diễn ra trên 2 mạch của ADN
b) A liên kết với T (cặp A – T), G liên kết với X (cặp G – X)
c) Khi nhân đôi, ADN mẹ tháo xoắn, 2 mạch đơn tách nhau, các nuclêôtit trên mỗi mạch đơn liên kết với các nuclêôtit ngoài môi trường theo NTBS ( A – T, G – X) dần hình thành nên mạch mới của ADN con.
d) Cấu tạo giữa 2 ADN con và ADN mẹ:
+ 2 ADN con giống hệt nhau và giống hệt ADN mẹ về số lượng, thành phần và trình tự sắp xếp các nuclêôtit.
+ Mỗi ADN con đều mang 1 mạch của ADN mẹ
Bài tập 2 trang 38 VBT Sinh học 9: Quá trình tự nhân đôi của ADN diễn ra theo những nguyên tắc nào?
Trả lời:
Quá trình tự nhân đôi của ADN diễn ra theo nguyên tắc bổ sung và nguyên tắc giữ lại một nửa
Bài tập 3 trang 38 VBT Sinh học 9: Điền từ hoặc cụm từ thích hợp vào chỗ trống trong các câu sau:
Quá trình tự nhân đôi của ADN diễn ra theo các nguyên tắc: ……………………
Nhờ đó, 2 ADN con được tạo ra giống ADN mẹ. Đây là một đặc tính xác định ADN là ………… của hiện tượng di truyền.
Trả lời:
Quá trình tự nhân đôi của ADN diễn ra theo các nguyên tắc: nguyên tắc bổ sung và nguyên tắc giữ lại một nửa.
Nhờ đó, 2 ADN con được tạo ra giống ADN mẹ. Đây là một đặc tính xác định ADN là cơ sở phân tử của hiện tượng di truyền.
Bài tập 4 trang 38 VBT Sinh học 9: Điền từ hoặc cụm từ thích hợp vào chỗ trống trong các câu sau:
Bản chất của gen là ………… – mỗi gen cấu trúc là một đoạn mạch của phân tử ADN mang thông tin quy định ………. của một loại protein.
ADN có hai chức năng quan trọng là …………………….. thông tin di truyền.
Trả lời:
Bản chất của gen là ADN – mỗi gen cấu trúc là một đoạn mạch của phân tử ADN mang thông tin quy định cấu trúc của một loại protein.
ADN có hai chức năng quan trọng là lưu giữ và truyền đạt thông tin di truyền.
Bài tập 5 trang 38-39 VBT Sinh học 9: Mô tả sơ lược về quá trình tự nhân đôi của ADN.
Trả lời:
Quá trình tự nhân đôi của ADN:
+ Khi bắt đầu nhân đôi, ADN mẹ tháo xoắn, 2 mạch đơn tách nhau, mỗi mạch đơn sẽ là khuôn để tổng hợp nên mạch mới.
+ Các nuclêôtit trên mỗi mạch đơn liên kết với các nuclêôtit ngoài môi trường theo NTBS (A – T, G – X) dần hình thành nên mạch mới của ADN con.
+ Khi quá trình nhân đôi kết thúc, hai ADN con sẽ được tạo thành và đóng xoắn. Mỗi ADN con sẽ chứa 1 mạch của ADN mẹ và một mạch mới được tổng hợp từ mạch khuôn đó.
Bài tập 6 trang 39 VBT Sinh học 9: Giải thích vì sao 2 ADN con được tạo ra qua cơ chế nhân đôi lại giống ADN mẹ?
Trả lời:
Mỗi mạch của ADN mẹ là khuôn để tổng hợp nên mạch mới của 2 ADN con, mà hai mạch của mỗi ADN lại bổ sung cho nhau, do đó 2 ADN con được tạo ra qua cơ chế nhân đôi sẽ giống ADN mẹ.
Bài tập 7 trang 39 VBT Sinh học 9: Nêu bản chất hóa học và chức năng của gen.
Trả lời:
Gen là một đoạn của phân tử ADN, do đó gen được cấu tạo từ các nguyên tố hóa học C, H, O, N, P. Gen có cấu trúc đa phân, được cấu tạo từ các đơn phân là các nucleotit (A, T, G, X).
Chức năng của gen là lưu giữ thông tin quy định cấu trúc của một loại protein.
Cập nhật thông tin chi tiết về Một Số Phương Pháp Giải Bài Tập Chương Iii: Adn Và Gen Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Môn Sinh Học 9 Ở Trường Thcs Nga Tân trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!