Xu Hướng 3/2023 # Nghiên Cứu Giải Toán Có Lời Văn Ở Lớp 1 # Top 8 View | Ictu-hanoi.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Nghiên Cứu Giải Toán Có Lời Văn Ở Lớp 1 # Top 8 View

Bạn đang xem bài viết Nghiên Cứu Giải Toán Có Lời Văn Ở Lớp 1 được cập nhật mới nhất trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Lí DO CHỌN ĐỀ TÀI Môn Toán lớp 1 mở đường cho trẻ đi vào thế giới kỳ diệu của toán học, rồi mai đây các em lớn lên trở thành anh hùng, nhà giáo, nhà khoa học, nhà thơ, trở thành những người lao động sáng tạo trên mọi lĩnh vực đời sống và sản xuất, trên tay có máy tính xách tay, nhưng không bao giờ các em quên được những ngày đầu tiên đến trường học đếm và tập viết 1,2,3 học các phép tính cộng,trừ các em không thể quên được vì đó là kỉ niệm đẹp đẽ nhất của đời người và hơn thế nữa những con số, những phép tính đơn giản ấy cần thiết cho suốt cuộc đời của các em. Đó cũng là vinh dự và trách nhiệm của người giáo viên nói chung và giáo viên lớp 1 nói riêng. Người thầy giáo từ khi chuẩn bị cho tiết dạy đầu tiên đến khi nghỉ hưu không lúc nào dứt nổi trăn trở về những điều mình dạy và nhất là môn Toán lớp 1 là một bộ phận của chương trình môn Toán ở tiểu học. Chương trình nó kế thừa và phát triển những thành tựu về dạy Toán lớp 1, nên nó có vai trò vô cùng quan trọng không thể thiếu trong mỗi cấp học. Dạy học môn Toán ở lớp 1 nhằm giúp học sinh: a. Bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết thực về phép đếm, về các số tự nhiên trong phạm vi 100, về độ dài và đo độ dài trong phạm vi 20, về tuần lễ và ngày trong tuần, về giờ đúng trên mặt đồng hồ; về một số hình học (Đoạn thẳng, điểm, hình vuông, hình tam giác, hình tròn); về bài toán có lời văn. b. Hình thành và rèn luyện các kĩ năng thực hành đọc, viết, đếm, so sánh các số trong phạm vi 100; cộng trừ và không nhớ trong phạm vi 100; đo và ước lượng độ dài đoạn thẳng( với các số đo là số tự nhiên trong phạm vi 20 cm). Nhận biết hình vuông, hình tam giác, hình tròn, đoạn thẳng, điểm, vẽ điểm, đoạn thẳng).Giải một số dạng bài toán đơn về cộng trừ bước đầu biết biểu đạt bằng lời, bằng kí hiệu một số nội dung đơn giản của bài học và bài thực hành, tập so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá trong phạm vi của những nội dung có nhiều quan hệ với đời sống thực tế của học sinh. c. Chăm chỉ, tự tin, cẩn thận, ham hiểu biết và học sinh có hứng thú học toán. Là một người giáo viên trực tiếp dạy lớp 1 và đặc biệt là dạy môn toán, Thực hiện chương trình đổi mới giáo dục toán học lớp 1 nói riêng ở tiểu học nói chung. Tôi rất trăn trở và suy nghĩ nhiều để học sinh làm sao làm được các phép tính cộng, trừ mà việc giải toán có lời văn thì càng khó hơn đối với học sinh lớp 1 nên tôi đi sâu về nghiên cứu dạy “giải toán có lời văn” ở lớp 1. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Nghiên cứu dạy giải toán có lời văn Dạy cho học sinh nhận biết về cấu tạo của bài toán có lời văn. Đọc hiểu – phân tích – tóm tắt bài toán. Giải toán đơn về thêm (bớt ) bằng một phép tính cộng ( trừ). Trình bày bài giải gồm câu lời giải + phép tính + đáp số. Tìm lời giải phù hợp cho bài toán bằng nhiều cách khác nhau. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Là những bài tập thuộc mạch kiến thức “giải toán có lời văn” trong chương trình lớp 1 ở Tiểu học. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Trong chương trình toán1 Giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 Từ tiết 81 cho đến tiết 108. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Giải toán có lời văn là một trong bốn mạch kiến thức trong chương trình môn toán lớp 1( số và phép tính, đại lượng và đo đại lượng, yếu tố hình học, giải toán có lời văn). Nghiên cứu dạy giải toán có lời văn nhằm giúp HS: – Nhận biết thế nào là một bài toán có lời văn. – Biết giải và trình bày bài giải các bài toán đơn bằng một phép tính cộng hoặc một phép tính trừ. – Bước đầu phát triển tư duy, rèn luyện phương pháp giải toán và khả năng diễn đạt đúng. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để nghiên cứu và thực nghiệm đề tài này tôi căn cứ vào các tài liệu chuẩn như: Chuẩn kiến thức kĩ năng toán 1 Phương pháp dạy các môn học ở lớp 1 Mục tiêu dạy học môn toán 1-sách giáo viên. Toán 1- sách giáo khoa. Một số tài liệu khác. Để thực hiện nội dung của đề tài, tôi đã sử dụng một số phương pháp cơ bản sau: – Tổng hợp lý luận thông qua các tài liệu ,sách giáo khoa và thực tiễn dạy học của lớp 1G – khối 1 – Trường Tiểu học Cát Linh. – Đánh giá quá trình dạy toán – Loại bài giải toán có lời văn từ những năm trước và những năm gần đây . – Tiến hành khảo sát chất lượng học sinh . – Đúc rút kinh nghiệm qua quá trình nghiên cứu. THỜI GIAN THỰC HIỆN Từ tháng 9 – 2011 đến tháng 1– 2012 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN – CƠ SỞ THỰC TIỄN CƠ SỞ LÝ LUẬN Khả năng giải toán có lời văn chính là phản ánh năng lực vận dụng kiến thức của học sinh. Học sinh hiểu về mặt nội dung kiến thức toán học vận dụng vào giải toán kết hợp với kíên thức Tiếng Việt để giải quyết vấn đề trong toán học. Từ ngôn ngữ thông thường trong các đề toán đưa ra cho học sinh đọc – hiểu – biết hướng giải đưa ra phép tính kèm câu trả lời và đáp số của bài toán. Giải toán có lời văn góp phần củng cố kiến thức toán, rèn luyện kỹ năng diễn đạt, tích cực góp phần phát triển tư duy cho học sinh tiểu học. Đó là nguyên nhân chính mà tôi chọn đề tài nghiên cứu:Phương pháp dạy toán có lời văn cho học sinh lớp 1. CƠ SỞ THỰC TIỄN Đối với trẻ là học sinh lớp 1, môn toán tuy có dễ nhưng để học sinh đọc-hiểu bài toán có lời văn quả không dễ dàng, vả lại việc viết lên một câu lời giải phù hợp với câu hỏi của bài toán cũng là vấn đề không đơn giản. Bởi vậy nỗi băn khoăn của giáo viên là hoàn toàn chính đáng. Vậy làm thế nào để giáo viên nói – học sinh hiểu , học sinh thực hành – diễn đạt đúng yêu cầu của bài toán. Đó là mục đích chính của đề tài này. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN THỰC TRẠNG Trong quá trình giảng dạy ở Tiểu học, đặc biệt dạy lớp 1, tôi nhận thấy hầu như giáo viên nào cũng phàn nàn khi dạy đến phần giải toán có lời văn ở lớp 1. HS rất lúng túng khi nêu câu lời giải, thậm chí nêu sai câu lời giải, viết sai phép tính, viết sai đáp số. Những tiết đầu tiên của giải toán có lời văn mỗi lớp chỉ có khoảng 20% số HS biết nêu lời giải, viết đúng phps tính và đáp số. Số còn lại là rất mơ hồ, các em chỉ nêu theo quán tính hoặc nêu miệng thì được nhưng khi viết các em lại rất lung túng, làm sai, một số em làm đúng nhưng khi cô hỏi lại lại không biết để trả lời . Chứng tỏ các em chưa nắm được một cách chắc chắn cách giải bài toán có lời văn. GV phải mất rất nhiều công sức khi dạy đến phần này. Kết quả điều tra năm học 2010 -2011 TT Lớp Sĩ số HS viết đúng câu lời giải HS viết đúng phép tính HS viết đúng đáp số HS giải đúng cả 3 bước 1 1E 57 30 53,2% 43 75% 48 85% 32 56,3% 2 1G 64 28 43,4% 36 56,7% 43 66,6% 28 43,4% NGUYÊN NHÂN Nguyên nhân từ phía GV: – GV chưa chuẩn bị tốt cho các em khi dạy những bài trước. Những bài nhìn hình vẽ viết phép tính thích hợp, đối với những bài này hầu như HS đều làm được nên GV tỏ ra chủ quan, ít nhấn mạnh hoặc không chú ý lắm mà chỉ tập trung vào dạy kĩ năng đặt tính, tính toán của HS mà quên mất rằng đó là những bài toán làm bước đệm , bước khởi đầu của dạng toán có lời văn sau này. Đối với GV dạy lớp 1 khi dạy dạng bài nhìn hình vẽ viết phép tính thích hợp, cần cho HS quan sát tranh tập nêu bài toán và thường xuyên rèn cho HS thói quen nhìn hình vẽ nêu bài toán . Có thể tập cho những em HS giỏi tập nêu câu trả lời cứ như vậy trong một khoảng thời gian chuẩn bị như thế thì đến lúc học đến phần bài toán có lời văn HS sẽ không ngỡ ngàng và các em sẽ dễ dàng tiếp thu, hiểu và giải đúng . Nguyên nhân từ phía HS: Do HS mới bắt đầu làm quen với dạng toán này lần đầu, tư duy của các em còn mang tính trực quan là chủ yếu. Mặt khác ở giai đoạn này các em chưa đọc thông viết thạo, các em đọc còn đánh vần nên khi đọc xong bài toán rồi nhưng các em không hiểu bài toán nói gì, thậm chí có những em đọc đi đọc lại nhiều lần nhưng vẫn chưa hiểu bài toán . Vì vậy HS không làm đúng cũng là điều dễ hiểu . Vậy làm thế nào để HS nắm được cách giải một cách chắc chắn chính xác? CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN Mức độ 1: Ngay từ đầu học kỳ I các bài toán được giới thiệu ở mức độ nhìn hình vẽ – viết phép tính. Mục đích cho học sinh hiểu bài toán qua hình vẽ, suy nghĩ chọn phép tính thích hợp. Thông thường sau mỗi phép tính ở phần luyện tập có một hình vẽ gồm 5 ô vuông cho học sinh chọn ghi phép tính và kết quả phù hợp với hình vẽ. Ban đầu để giúp học sinh dễ thực hiện sách giáo khoa ghi sẵn các số và kết quả : VD: Bài 5 trang 46 a) 1 2 = 3 Chỉ yêu cầu học sinh viết dấu cộng vào ô trống để có : 1 + 2 = 3 b) Đến câu này nâng dần mức độ – học sinh phải viết cả phép tính và kết quả 1 + 1 = 2 Và yêu cầu tăng dần, học sinh có thể nhìn từ một tranh vẽ bài 4 trang 77 diễn đạt theo 2 cách . Cách 1: Có 8 hộp thêm 1 hộp, tất cả là 9 hộp. 8 + 1 = 9 Cách 2: Có 1 hộp đưa vào chỗ 8 hộp , tất cả là 9 hộp. 1 + 8 = 9 Tương tự câu b: Có 7 bạn và 2 bạn đang đi tới. Tất cả là 9 bạn. Cách 1: 7 + 2 = 9 Cách 2: 2 + 7 = 9 Đến bài 3 trang 85 Học sinh quan sát và cần hiểu được: Lúc đầu trên cành có 10 quả. Sau đó rụng 2 quả . Còn lại trên cành 8 quả. 10 - 2 = 8 Ở đây giáo viên cần động viên các em diễn đạt – trình bày miệng ghi đúng phép tính. Tư duy toán học được hình thành trên cơ sở tư duy ngôn ngữ của học sinh. Khi dạy bài này cần hướng dẫn học sinh diễn đạt trình bày động viên các em viết được nhiều phép tính để tăng cường khả năng diễn đạt cho học sinh. Mức độ 2: Đến cuối học kì I học sinh đã được làm quen với tóm tắt bằng lời: Bài 3 trang 87 b, Có : 10 quả bóng Cho : 3 quả bóng Còn :…. quả bóng? 10 - 3 = 7 Học sinh từng bước làm quen với lời thay cho hình vẽ, học sinh dần dần thoát ly khỏi hình ảnh trực quan từng bước tiếp cận đề bài toán. Yêu cầu học sinh phải đọc và hiểu được tóm tắt, biết diễn đạt đề bài và lời giải bài toán bằng lời, chọn phép tính thích hợp nhưng chưa cần viết lời giải. Tuy không yêu cầu cao,tránh tình trạng quá tải với học sinh, nhưng có thể động viên học sinh khá giỏi làm nhiều cách , có nhiều cách diễn đạt từ một hình vẽ hay một tình huống sách giáo khoa. Mức độ 3: Giới thiệu bài toán có lời văn bằng cách cho học sinh tiếp cận với một đề bài toán chưa hoàn … văn nhưng kết quả chưa cao. Số học sinh viết đúng câu lời giải đạt tỷ lệ thấp. Lời giải của bài toán chưa sát với câu hỏi của bài toán. * Quá trình nghiên cứu và thực nghiệm: Trong phạm vi 27 tiết dạy từ tiết 81 đến tiết 108 tôi đặc biệt chú ý vào 1 số tiết chính sau đây: Tiết 81 Bài toán có lời văn Có …bạn, có thêm … bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn? HS quan sát tranh và trả lời câu hỏi Điền vào chỗ chấm số 1 và số 3. – Bài 2 tương tự. Qua tìm hiểu bài toán giúp cho HS xác định được bài có lời văn gồm 2 phần: Thông tin đã biết gồm 2 yếu tố. Câu hỏi ( thông tin cần tìm ) Từ đó học sinh xác định được phần còn thiếu trong bài tập ở trang116: Có 1 con gà mẹ và 7con gà con. Hỏi có tất cả bao nhiêu con gà? Kết hợp giữa việc quan sát tranh và trả lời câu hỏi gợi ý của giáo viên, học sinh hoàn thành bài toán 4 trang 116: Có 4 con chim đậu trên cành , có thêm 2 con chim bay đến. Hỏi có tất cả bao nhiêu con chim? Tiết 82 Giải toán có lời văn. Giáo viên nêu bài toán . Học sinh đọc bài toán – Đây là bài toán gì? Bài toán có lời văn. -Thông tin cho biết là gì ? Có 5 con gà , mua thêm 4 con gà. – Câu hỏi là gì ? Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà ? Dựa vào tranh vẽ và tóm tắt mẫu, GV đưa ra cách giải bài toán mẫu: Bài giải Nhà An có tất cả là: 5 + 4 = 9 ( con gà ) Đáp số: 9 con gà Bài 1 trang117: Học sinh đọc bài toán – phân tích đề bài – điền vào tóm tắt và giải bài toán . Tóm tắt: An có : 4 quả bóng Bình có : 3 quả bóng Cả hai bạn có :….quả bóng? Bài giải Cả hai bạn có là: 4+3=7( quả bóng ) Đáp số: 7 quả bóng Bài 2 trang 118 Tóm tắt: Có : 6 bạn Thêm : 3 bạn Có tất cả :… bạn? Bài giải Có tất cả là : 6+3=9( bạn ) Đáp số: 9 bạn Qua 2 bài toán trên tôi rút ra cách viết câu lời giải như sau: Lấy dòng thứ 3 của phần tóm tắt + thêm chữ là: VD – Cả hai bạn có là: – Có tất cả là: Tương tự bài 3 trang118 câu lời giải sẽ là: – Có tất cả là: Tiết 84 Luyện tập Bài 1 và bài 2 trang 121 tương tự bài 1,2,3 trang117.Nhưng câu lời giải được mở rộng hơn bằng cách thêm cụm từ chỉ vị trí vào trước cụm từ có tất cả là. Cụ thể là – Bài 1 tr 121 Trong vườn có tất cả là: – Bài 2 tr 121 Trên tường có tất cả là: Tiết 85 Luyện tập Bài 1 trang 122 HS đọc đề toán – phân tích bài toán ( như trên ) Điền số vào tóm tắt Vài ba học sinh nêu câu lời giải khác nhau GV chốt lại một cách trả lời mẫu: Số quả bóng của An có tất cả là: Tương tự Bài 2 trang122 Số bạn của tổ em có là: Bài 3 trang122 – Số gà có tất cả là: Vậy qua 3 bài tập trên học sinh đã mở rộng được nhiều cách viêt câu lời giải khác nhau ,song GV chốt lại cách viết lời giải như sau: Thêm chữ Số+ đơn vị tính của bài toán trước cụm từ có tất cả là như ở tiết 82 đã làm . Riêng với loại bài mà đơn vị tính là đơn vị đo độ dài( cm) cần thêm chữ dài vào trước chữ là. VD cụ thể Tóm tắt Đoạn thẳng AB : 5cm Đoạn thẳng BC : 3cm Cả hai đoạn thẳng : … cm? Bài giải Cả hai đoạn thẳng dài là: 5+ 3 = 8 ( cm) Đáp số : 8 cm Tiết 86 Tiết 104 Hầu hết đều có bài toán có lời văn vận dụng kiến thức toán được cung cấp theo phân phối chương trình . Tuy nhiên, việc phân tích đề- tóm tắt- giải bài toán phải luôn luôn được củng cố duy trì và nâng dần mức độ. Song cơ bản vẫn là các mẫu lời giải cho các bài toán thêm là: – Có tất cả là: – Số ( đơn vị tính ) + có tất cả là: – Vị trí ( trong, ngoài, trên, dưới, …) + có tất cả là: – … đoạn thẳng….+ dài là: Tiết 105: Giải toán có lời văn (tiếp theo) Bài toán: Nhà An có 9 con gà, mẹ đem bán 3 con gà. Hỏi nhà An còn lại mấy con gà? HS đọc – phân tích bài toán : +Thông tin cho biết là gì? Có 9 con gà. Bán 3 con gà. +Câu hỏi là gì ? Còn lại mấy con gà? GV hướng dẫn HS đọc tóm tắt- bài giải mẫu .GV giúp HS nhận thấy câu lời giải ở loại toán bớt này cũng như cách viết của loại toán thêm đã nêu ở trên chỉ khác ở chỗ cụm từ có tất cả được thay thế bằng cụm từ còn lại mà thôi. Cụ thể là: Bài giải Số gà còn lại là: 9 – 3 = 6( con gà) Đáp số: 6 con gà. Bài 1 trang148 Tóm tắt Có : 8 con chim Bay đi : 2 con chim Còn lại:… con chim? Bài giải Số chim còn lại là: 8 – 2 = 6( con chim) Đáp số : 6 con chim. Bài 2 trang 149 Tóm tắt Có : 8 quả bóng Đã thả :3 quả bóng Còn lại:….quả bóng? Bài giải Số bóng còn lại là : 8 – 3 = 5( quả bóng) Đáp số: 5 quả bóng Bài 3 trang 149 Tóm tắt Đàn vịt có : 8 con ở dưới ao : 5 con Trên bờ: … con? Bài giải Trên bờ có là: 8 -5=3 ( con vịt ) Đáp số: 3 con vịt . Tiết 106 Luyện tập Bài 1,2 ( Tương tự tiết 105 ) Tiết 107 Luyện tập Bài 1,2 ( tương tự như trên ) ­Nhưng bài 4 trang 150 và bài 4 trang151 thì lời giải dựa vào dòng thứ 3 của phần tóm tắt bài toán: Số hình tam giác không tô màu là : Số hình tròn không tô màu là: 8 – 4 = 4( hình ) 15 – 4 = 11( hình ) Đáp số: 4 hình tam giác Đáp số: 11 hình tròn. ­ Bài 3 trang 151: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng ? cm 2cm 13cm Bài giải Sợi dây còn lại dài là: 13 – 2 = 11( cm) Đáp số : 11cm Tiết 108 Luyện tập chung Đây là phần tổng hợp chốt kiến thức của cả 2 dạng toán đơn thêm và bớt ở lớp1. Bài 1 trang 152 a, Bài toán: Trong bến có …. ô tô, có thêm …. ô tô vào bến. Hỏi …………………………….? HS quan sát tranhvà hoàn thiện bài toán thêm rồi giải bài toán với câu lời giải có cụm từ có tất cả b, Bài toán: Lúc đầu trên cành có 6 con chim, có …. con bay đi. Hỏi ……………………….? HS quan sát tranh rồi hoàn thiện bài toán bớt và giải bài toán với câu lời giải có cụm từ còn lại Lúc này HS đã quá quen với giải bài toán có lời văn nên hướng dẫn cho HS chọn cách viết câu lời giải gần với câu hỏi nhất đó là: Đọc kĩ câu hỏi. Bỏ chữ Hỏi đầu câu hỏi. Thay chữ bao nhiêu bằng chữ số. Thêm vào cuối câu chữ là và dấu hai chấm Cụ thể Bài 1 trang 152 a, Câu hỏi là: Hỏi có tất cả bao nhiêu ô tô? Câu lời giải là: Có tất cả số ô tô là : b, Câu hỏi là: Hỏi trên cành còn lại bao nhiêu con chim? Câu lời giải là: Trên cành còn lại số con chim là : VD khác: Câu hỏi là: Hỏi hai lớp trồng được tất cả bao nhiêu cây ? Câu lời giải là: Hai lớp trồng được tất cả số cây là: Câu hỏi là: Hỏi con sên bò được tất cả bao nhiêu xăng-ti-mét? Câu lời giải là: Con sên bò được tất cả số xăng-ti-mét là? Câu hỏi là: Hỏi Lan còn phải đọc bao nhiêu trang nữa thì hết quyển sách? Câu lời giải là: Lan còn phải đọc số trang nữa là: Hoặc: Còn lại là: Còn HS khá giỏi các em có thể chọn cho mình được nhiều câu lời giải khác nhau nâng dần độ khó thì lời giải càng hay và sát với câu hỏi hơn. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Các lần khảo sát Lớp Sĩ số HS viết đúng câu lời giải HS viết đúng phép tính HS viết đúng đáp số HS viết đúng cả 3 bước Đầu kì I 1G 52 37 72% 29 56% 20 38,9% 25 48% GK I 1G 52 40 76% 33 64% 31 60% 29 56% Cuối kì I 1G 52 46 88% 40 76% 37 72% 35 68% C. NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA, KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT BÀI HỌC KINH NGHIỆM Qua việc nghiên cứu và áp dụng phương pháp dạy toán có lời văn cho học sinh lớp 1 cho thấy giải toán có lời văn ở lớp 1 không khó ở việc viết phép tính và đáp số mà chỉ mắc ở câu lời giải của bài toán. Sau quá trình nghiên cứu và áp dụng kinh nghiệm sáng kiến thì HS biết viết câu lời giải đã đạt kết quả rất cao,dẫn tới việc HS đạt tỉ lệ cao về hoàn thiện bài toán có lời văn .Vì vậy theo chủ quan của bản thân tôi thì kinh nghiệm sáng kiến này có thể áp dụng và phổ biến nhằm nâng cao chất lượng cho HS về việc giải toán có lời văn. KẾT LUẬN Phương pháp dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 giúp học sinh hoàn thiện một bài giải đủ 3 bước: câu lời giải + phép tính + đáp số là vấn đề đang được các thầy cô trực tiếp dạy lớp 1 rất quan tâm. Vấn đề đặt ra là giúp học sinh lớp 1 viết câu lời giải của bài toán sao cho sát với yêu cầu mà câu hỏi của bài toán đưa ra. Chính vì vậy nên tôi mạnh dạn đưa ra kinh nghiệm sáng kiến mà bản thân tôi đã vận dụng vào trong quá trình dạy và đạt kết quả tương đối khả quan. NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT – Vì thời gian nghiên cứu xen kẽ quá trình dạy chính khoá nên việc nghiên cứu còn giới hạn trong phạm vi một lớp do tôi phụ trách . – Học sinh về nhà ít thời gian nghiên cứu thêm nên phần lớn chỉ phụ thuộc vào bài tập được giao trên lớp. – Khả năng bản thân giáo viên có hạn , tài liệu tham khảo ít nên phạm vi nghiên cứu có phần hạn chế. – Tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu để tìm ra biện pháp tối ưu nhất giúp các em giải toán có lời văn một cách dễ dàng hơn và hiệu quả cao nhất. – Quá trình nghiên cứu và kinh nghiệm dạy toán có lời văn theo chương trình sách giáo khoa mới tôi nhận thấy về cơ bản nội dung sách giáo khoa và chương trình khá phù hợp .Tất nhiên để có dược kinh nghiệm dạy giải toán có lời văn cho HS lớp 1, người giáo viên phải dày công nghiên cứu tài liệu và theo dõi HS qua nhiều năm, nắm bất được điểm yếu của HS để tập trung khắc phục . Có như vậy việc giảng dạy và giáo dục mới thành công như mong đợi. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ GD & ĐT – Sách giáo khoa Toán 1 – NXB Giáo dục – Hà Nội, 2005. Nguyễn Tuấn, Lê Thị Thu Huyền – Thiết kế bài giảng Toán (tập 1, 2) – NXB Hà Nội, 2008. Đào Nãi (chủ biên), Đỗ Trung Hiệu, Phan Thị Nghĩa – VBT Toán nâng cao 1 (tập 1, 2) – NXB Đà Nẵng, 2007. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Hà Nội, ngày 3 tháng 4 năm 2012 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. MỤC LỤC

Kinh Nghiệm Dạy Học Giải Toán Có Lời Văn Ở Lớp 1 Và Lớp 2

Dạy học giải toán có lời văn có vai trò rất quan trọng trong dạy học môn toán ở tiểu học. Qua giải toán có lời văn giúp học sinh luyện tập, củng cố vận dụng các kiến thức và thao tác thực hành đã học. Tập dượt vận dụng kiến thức, và kĩ năng thực hành vào thực tiễn.Phát triển năng lực tư duy: rèn luyện phương pháp và kĩ năng suy luận,khêu gợi và tập dượt khả năng quan sát, phỏng đoán tìm tòi.Qua giải toán học sinh rèn luyện những đức tính và phong cách làm việc của người lao động mới như: ý chí khắc phục khó khăn, thói quen xét đoán có căn cứ, tính cẩn thận, cụ thể chu đáo, làm việc có kế hoạch và khả năng suy nghĩ độc lập, linh hoạt, khắc phục cách suy nghĩ máy móc ,rập khuôn, xây dựng lòng ham thích tìm tòi sáng tạo ở nhiều mức độ khác nhau.

Trong dạy học giải toán ở tiểu học, các yêu cầu cơ bản được sắp xếp có chủ định trong từng lớp, tạo thành một hệ thống các yêu cầu từ thấp đến cao, từ lớp 1 đến lớp 5 trong sự kết hợp chặt chẽ với lí thuyết trong chương trình và SGK. Việc giải các bài toán đơn thực chất là giải hệ thống các bài toán hợp. Vì vậy việc dạy kĩ các bài toán đơn ở lớp 1, lớp 2 là một công việc chuẩn bị tốt cho việc giải các bài toán hợp ở các lớp 3,4,5.

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Kinh nghiệm Dạy học giải toán có lời văn ở lớp 1 và lớp 2 đặng thị Hà -Phó hiệu trưởng Trường tiểu học xuân tân a Kinh nghiệm dạy học giải toán có lời văn ở lớp 1 và lớp 2 Phần i: Đặt vấn đề Dạy học giải toán có lời văn có vai trò rất quan trọng trong dạy học môn toán ở tiểu học. Qua giải toán có lời văn giúp học sinh luyện tập, củng cố vận dụng các kiến thức và thao tác thực hành đã học. Tập dượt vận dụng kiến thức, và kĩ năng thực hành vào thực tiễn.Phát triển năng lực tư duy: rèn luyện phương pháp và kĩ năng suy luận,khêu gợi và tập dượt khả năng quan sát, phỏng đoán tìm tòi.Qua giải toán học sinh rèn luyện những đức tính và phong cách làm việc của người lao động mới như: ý chí khắc phục khó khăn, thói quen xét đoán có căn cứ, tính cẩn thận, cụ thể chu đáo, làm việc có kế hoạch và khả năng suy nghĩ độc lập, linh hoạt, khắc phục cách suy nghĩ máy móc ,rập khuôn, xây dựng lòng ham thích tìm tòi sáng tạo ở nhiều mức độ khác nhau. Trong dạy học giải toán ở tiểu học, các yêu cầu cơ bản được sắp xếp có chủ định trong từng lớp, tạo thành một hệ thống các yêu cầu từ thấp đến cao, từ lớp 1 đến lớp 5 trong sự kết hợp chặt chẽ với lí thuyết trong chương trình và SGK. Việc giải các bài toán đơn thực chất là giải hệ thống các bài toán hợp. Vì vậy việc dạy kĩ các bài toán đơn ở lớp 1, lớp 2 là một công việc chuẩn bị tốt cho việc giải các bài toán hợp ở các lớp 3,4,5. Trong quá trình giảng dạy và chỉ đạo dạy học toán có lời văn lớp 1 lớp 2 chúng tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm để dạy tốt nội dung này . Tôi xin được trao đổi những kinh nghiệm này với các bạn đồng nghiệp. phần II: Kinh nghiệm dạy học giải toán có lời văn ở lớp 1 và lớp 2 I. dạy học giải toán có lời văn lớp 1 1.Dạy các bài trong giai đoạn 1:Chuẩn bị về bài toán có lời văn và giải bài toán có lời văn. 1.1.Mức độ 1:Làm quen với bài toán qua hình vẽ. Tổng số bài tập là 31 bài với 51 tình huống. Khi hướng dẫn học sinh làm các bài tập này giáo viên hướng dẫn học sinh theo các bước sau: - Quan sát tranh. - Phân tích nội dung tranh. - Nêu "tình huống". - Chọn phép tính thích hợp. - Viết phép tính vào 5 ô vuông Ví dụ: Bài 3 ( trang 51) - Quan sát tranh: GV: Các em hãy quan sát bức tranh. HS: quan sát tranh - Phân tích nội dung tranh: GV:Trên cành có mấy con chim? HS: Trên cành có 3 con chim GV: Có mấy con chim bay đến? HS: Có 1 con chim bay đến. GV: Có tất cả bao nhiêu con chim? HS: Có tất cả 4 con chim. - Nêu " tình huống": GV:Các em hãy nêu "tình huống"? HS: Trên cành có 3 con chim, có 1 con chim bay đến. Có tất cả 4 con chim. - Chọn phép tính thích hợp: GV: Em hãy chọn phép tính thích hợp. HS: 3 + 1 = 4 - Viết phép tính vào 5 ô vuông. GV: Các em hãy viết phép tính vào 5 ô vuông. HS: Viết phép tính vào 5 ô vuông. Khi học sinh đã quen với dạng bài tập này thì giảm dần sự can thiệp của giáo viên trong quá trình làm bài của học sinh. Cần lưu ý bước nêu bài toán nên tạo điều kiện cho nhiều học sinh được trình bày.Bước điền kết quả vào 5 ô vuông cần được hướng dẫn tỉ mỉ ngay từ những bài đầu . Với yêu cầu tăng dần ở những bài học sau và để bồi dưỡng những học sinh giỏi toán có thể yêu cầu học sinh có nhiều cách nêu bài toán từ một hình vẽ. Ví dụ: Bài tập 4, trang 59 (phần b), Có thể diễn đạt theo các cách: Có 1 bức tranh đã tô màu, 4 bức tranh chưa tô màu. Tất cả có 5 bức tranh: 1 + 4 = 5 Có 4 bức tranh chưa tô màu, 1 bức tranh đã tô màu. Tất cả có 5 bức tranh: 4 + 1 = 5 Có 5 bức tranh, 1 bức tranh đã tô màu. Còn 4 bức tranh chưa tô màu: 5 -1 = 4 Có 5 bức tranh, 4 bức tranh chưa tô màu. Đã tô màu 1 bức tranh : 5 - 4 = 1 ở đây nội dung kiến thức không tăng, nhưng yêu cầu cao hơn khi học sinh đã quen dần với giải toán. Đối với loại bài tập này, học sinh ít nhất phải viết được phép tính đầu tiên, với các phép tính sau GV yêu cầu phù hợp với mỗi đối tượng học sinh trong lớp. Giáo viên có thể động viên các em tập diễn đạt và trình bày miệng, ghi đúng phép tính . Tư duy toán học được hình thành trên cơ sở tư duy ngôn ngữ của học sinh. Khi dạy bài này cần hướng dẫn học sinh diễn đạt, trình bày; động viên các em viết được nhiều phép tính, để tăng cường khả năng diễn đạt của học sinh. 1.2.Mức độ 2:Làm quen với bài toán qua tóm tắt bằng lời. Tổng số bài tập 7 bài tập với 10 tóm tắt. Học sinh đã làm quen với bài toán qua tóm tắt bằng lời, để từng bước làm qen với lời thay cho hình vẽ, học sinh dần thoát li khỏi những hình ảnh trực quan, từng bước tiếp cận với đề toán. Khi hướng dẫn học sinh làm các bài tập này giáo viên hướng dẫn học sinh theo các bước sau: - Đọc hiểu tóm tắt. - Nêu đề bài. - Chọn phép tính thích hợp. - Trình bày lời giải. - Viết phép tính vào 5 ô vuông. Ví dụ: Bài 3 phần b ( trang 90) Có : 7 lá cờ Bớt đi: 2 lá cờ Còn : ... lá cờ? Giáo viên hướng dẫn giải như sau: - Đọc hiểu tóm tắt. GV: Các em hãy đọc tóm tắt. HS: Đọc hiểu tóm tắt ( đọc thầm) -Nêu đề bài toán: GV: Dựa vào tóm tắt em hãy nêu đề bài toán? HS: Có 7 lá cờ, bớt đi 2 lá cờ .Hỏi còn lại bao nhiêu lá cờ. - Chọn phép tính thích hợp. GV: Muốn biết còn lại bao nhiêu lá cờ em làm phép tính gì? HS: Phép tính trừ: 7 -2 = 5 - Nêu bài giải: GV: Vậy còn lại bao nhiêu lá cờ? HS: Số lá cờ còn lại là: 7 - 2 = 5 lá cờ - Viết phép tính vào 5 ô vuông. GV: Các em hãy viết phép tính vào 5 ô vuông. HS: Viết phép tính vào 5 ô vuông. Cũng như khi dạy các bài ở mức độ 1khi dạy các bài ở mức độ 2 cần: +Tạo điều kiện cho nhiều học sinh được trình bày đề bài và bài giải. +Với yêu cầu tăng dần ở những bài học sau và để bồi dưỡng những học sinh giỏi toán có thể yêu cầu học sinh có nhiều cách nêu bài toán từ một tóm tắt. 2.Giai đoạn 2:Chính thức học giải bài toán có lời văn. Tổng số 37 bài tập Nội dung này bắt đầu học từ học kì II của lớp 1, học sinh được biết thế nào là một bài toán có lời văn( cấu tạo bài toán gồm hai phần: giả thiết bài toán cho gì? và kết luận bài toán hỏi gì?) Từ đó, học sinh biết cách giải và trình bày bài giải bài toán ( Gồm có: Câu lời giải, phép tính giải, và đáp số) Hs biết cách giải bài toán đơn về "thêm", "bớt" một số đơn vị. Bài toán giải bằng phép tính trừ được giới thiệu khi học sinh đã thành thạo giải bài toán có lời văn bằng phép tính cộng. Vì vậy khi dạy giáo viên chỉ hướng dẫn cách làm tương tự, thay thế phép tính cho phù hợp với bài toán. Dạy học giải toán có lời văn ở lớp 1 chủ yếu là dạy phương pháp giải toán. Để giúp các em biết cách giải toán, tôi giúp học sinh cần phải nắm được 2 vấn đề then chốt : + Làm cho các em nắm được các bước cần thiết của quá trình giải toán và rèn kỹ năng thực hiện các bước đó 1 cách thành thạo . + Làm cho các em nắm được và có kỹ năng vận dụng các phương pháp chung cũng như các cách giải thích hợp với từng dạng toán. Để giải một bài toán có văn tôi hướng dẫn các em thực hiện theo 4 bước: 1.Bước 1 : Tìm hiểu kĩ bài toán. Mỗi bài toán gồm hai phần: giả thiết bài toán cho gì? và kết luận bài toán hỏi gì?. Hiểu rõ đầu bài là chỉ ra và phân biệt được rành mạch 2 phần từng bước thấy được chức năng của từng phần. Vì vậy để kiểm tra việc đọc và hiểu đầu bài toán trong từng bài cụ thể, đầu tiên tôi yêu cầu các em nhắc lại nội dung ban đầu bài ( không đọc thuộc lòng) bằng lời của mình .Sau đó tôi đặt câu hỏi để học khai thác nội dung bài toán:bài toán cho gì? yêu cầu tìm gì? rồi yêu cầu học sinh gạch chân những nội dung quan trọng: Ví dụ : Bài 3 ( trang 131): An có 30 cái kẹo, chị cho thêm An 10 cái nữa. Hỏi An có tất cả bao nhiêu cái kẹo? Đến đây học sinh đã hiểu được: Cái đã biết : - Có 30 cái kẹo - Thêm 10 cái Cái phải tìm : Có tất cả......cái kẹo? 2.Bước 2: Tóm tắt bài toán: Chú ý rằng tóm tắt không nằm trong lời giải của bài toán , nhưng phần tóm tắt cần được luyện kĩ để học sinh nắm được dữ kiện của bài toán đầy đủ , chính xác ( cái đã biết, cái phải tìm ). Nhiều học sinh không xác định được những từ ngữ trọng tâm, nên khi tóm tắt gần như viết lại đầu bài. Vì vậy, việc xác định những từ ngữ trọng tâm trong bước tìm hiểu đầu bài rất quan trọng, giúp các em có được tóm tắt ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu. Ví dụ : Bài 3 ( trang 131): An có 30 cái kẹo, chị cho thêm An 10 cái nữa. Hỏi An có tất cả bao nhiêu cái kẹo? Tóm tắt Có : 30 cái kẹo Thêm : 10 cái Có tất cả......cái kẹo? 3.Bước 3: Lập kế hoạch giải và trình bày bài giải. 3.1.Chọn phép tính giải: Để chọn đúng phép tính giải trong quá trình tìm hiểu đầu bài,tóm tắt tôi giúp các em tìm ra và ghi nhớ các từ " chìa khoá" trong từng dạng toán đó, bài toán đó.Từ "chìa khóa" trong các dạng toán,bài toán có lời văn ở lớp 1 đó là: "thêm"; "bớt"; "có tất cả"; "cả hai"; "bán"; "mua" "bay đi" ;"bay đến" ; Trên cơ sở các từ "chìa khóa" các em sẽ chọn được phép tính thích hợp. Ví dụ : Bài 3 ( trang 131): An có 30 cái kẹo, chị cho thêm An 10 cái nữa. Hỏi An có tất cả bao nhiêu cái kẹo? Tóm tắt Có : 30 cái kẹo Thêm : 10 cái Có tất cả......cái kẹo? Có 30 cái kẹo "thêm" 10 cái nghĩa là cộng vào.( Từ "chìa khóa"là "thêm" ) 3.2. Chọn câu lời giải Đây là thao tác gắn kết phép tính và lời văn một thao tác quan trọng đối với giải toán có lời văn, cũng như sự phát triển tư duy của các em. Đôí với các học sinh khi đã hiểu được mục đích ý nghĩa của phép tính giải thì việc lựa chọn câu lời giải khá dễ dàng.Nhưng bên cạnh đó vẫn còn có học sinh lúng túng trong việc lựa chọn câu lời giải,với những học sinh này lí do vì các em chưa hiểu mục đích ý nghĩa của phép tính, tôi giúp các em hiểu rõ vấn đề này bằng cách hỏi các em: "Phép tính em vừa làm là để tìm gì?" hoặc đề nghị các em nhắc lại yêu cầu của bài tập (nhắc lại câu hỏi). Lưu ý: Giáo viên không áp đặt cho tất cả các học sinh phải nêu câu lời giải như nhau, giáo viên kiên trì nghe học sinh trình bày câu lời giải theo ý mình. Ví dụ: Bài 3 ( trang 131): An có 30 cái kẹo, chị cho thêm An 10 cái nữa. Hỏi An có tất cả bao nhiêu cái kẹo? Câu lời giải có thể là: "Có tất cả" ; "Số kẹo của An có tất cả là"; " Tất cả số kẹo của An là" 3.3.Trình bày bài giải. Trước khi học sinh trình bày bài giải tôi yêu cầu học sinh nhắc lại trình tự bài giải, đó là: + Câu lời giải + Phép tính + Đáp số Lưu ý: Quy ước viết đơn vị của phép tính trong bài giải học sinh cần phải nhớ để thực hiện khi trình bày bài giải. Tên đơn vị của phép tính cho vào trong ngoặc đơn, tên đơn vị của đáp số thì không có ngoặc đơn. 4.Bước 4: Kiểm tra bài giải và đánh giá cách giải : Việc kiểm tra bài giải và cách giải là yêu cầu không thể thiếu được khi giải bài toán. Vì qua quan sát hầu như các em thường coi rằng bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số. Vì vậy khi giải xong các bài toán trên tôi đều hướng dẫn các em cách kiểm tra kết quả bài giải của mình. - Đọc lại lời giải - Kiểm tra phép tính và từ "chìa khóa". - Kiểm tra câu lời giải và phép tính. *ở lớp 1, học sinh chỉ giải các bài toán về thêm, bớt với một phép tính cộng hoặc trừ, mọi học sinh bình thường đều có thể hoàn thành nhiệm vụ học tập một cách nhẹ nhàng nếu được giáo viên hưỡng dẫn cụ thể theo các bước trên. Để học sinh hiểu vấn đề sâu sắc hơn, chắc chắn hơn, tư duy và ngôn ngữ của học sinh phát triển hơn, giáo viên cho học sinh tập ra đề toán phù hợp với một phép tính để các em tập tư duy ngược, tập phát triển ngôn ngữ, tập ứng dụng kiến thức vào các tình huống thực tiễn. Ví dụ với phép tính 8 -3 = 5. Có thể có các bài toán sau. Bài toán 1: Nam có 8 cái kẹo, nam cho bạn 3 cái .Hỏi nam còn mấy cái kẹo? Bài toán 2: Một sợi dây dài 8cm, đã cắt đi 3cm. Hỏi sợi dây còn lại dài bao nhiêu xăng-ti-met? Bài toán 3: Nhà Nam có 8 con gà, mẹ Nam bán đi 3 con. Hỏi nhà Nam còn mấy con gà? Bài toán 4: Đàn vịt có 8 con, 3 con ở dưới ao.Hỏi trên bờ có mấy con vịt? Phát triển các bài toán cơ bản thành các bài toán nâng cao để dạy cho học sinh. Ví dụ : Từ bài toán cơ bản An có 30 cái kẹo, chị cho thêm An 10 cái nữa. Hỏi An có tất cả bao nhiêu cái kẹo. Phát triển các bài toán cơ bản thành các bài toán nâng cao như sau: Bài toán 1: An có một số kẹo, An cho chị 10 cái, An còn 20 cái. Hỏi lúc đầu An có bao nhiêu cái kẹo. Bài toán 1: Nếu chị cho An 10 cái kẹo nữa thì An có tất cả 40 cái kẹo.Hỏi lúc đầu An có bao nhiêu cái kẹo. Qua ví dụ trên ta thấy từ một bài toán cơ bản ta chỉ cần thay đổi một số từ ngữ, số liệu thì mối quan hệ giữa "cái đã cho" và "cái phải tìm" đã thay đổi. Vì thế cách giải cũng sẽ khác đi. HS khá, giỏi được làm những bài tập như vậy trong một tiết học thì chắc chắn sẽ rất hứng thú và say mê.Từ đó giúp học sinh khắc sâu được kiến thức cơ bản của bài toán và rèn luyện được kĩ năng phân tích nhận dạng vấn đề cho HS khi gặp sự lắt léo khác nhau trong các bài toán. II. Dạy học giải toán có lời văn ở lớp 2 Nội dung dạy học giải toán có lời văn lớp 2 gồm: Rèn phương pháp giải bài toán và khả năng diễn đạt ( phân tích đề bài, giải quyết vấn đề, trình bày vấn đề bằng nói và viết). Toán 2 không dạy bài toán khó mang tính đánh đố học sinh, nhưng nội dung các bài toán phong phú, gần gũi với thực tiên xung quanh các em, bài toán thường đặt ra dưới dạng giải quyết một tình huống có trong thực tiễn. Dạy trình bày bài giải của bài toán có lời văn gồm câu lời giải kèm theo phép tính trung gian và đáp số. Như vậy khi hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn ở lớp 2 giống với cách hướng dẫn giải toán có lời văn ở lớp 1. Một số điều cần lưu ý khi dạy học giải toán có lời văn ở lớp 2. Giáo viên tiếp tục quan tâm tới việc hướng dẫn học sinh phương pháp giải toán và tạo điều kiện nhiều hơn để học sinh trình bày ý kiến của mình. Học lên lớp 2 học sinh có kĩ năng giải các bài toán có lời văn, vốn sống vốn kinh nghiệm của học sinh cũng nhiều hơn vì vậy khi hướng dẫn học sinh, cần tạo điều kiện cho các em phát huy, rèn luyện những khả năng đó. Giúp học sinh nhận ra những dấu hiệu của từng dạng toán. Ví dụ. Dạng toán "nhiều hơn" dấu hiệu để nhận ra đó là các từ " chìa khóa" như : "hơn"; "cao hơn"; "dài hơn"; "nặng hơn"... Dạng toán " ít hơn" dấu hiệu để nhận ra đó là các từ " chìa khóa" như : "ít hơn"; "thấp hơn"; "kém "; "nhẹ hơn"... Học sinh phải hiểu bản chất của phép nhân phép chia ,để vận dụng vào giải toán. Dạy tốt cách tính chu vi hình tam giác, chu vi hình tứ giác để học sinh vận dụng trong các bài toán có nội dung hình học. Củng cố, khắc sâu kiến thức về giải toán cho học sinh, tránh hiện tượng học sinh làm bài một cách máy móc theo mẫu (thấy "nhiều hơn" thì làm phép cộng, "ít hơn" thì làm phép trừ...), giáo viên yêu cầu học sinh tự ra đề toán từ một phép tính và giáo viên phát triển các bài toán cơ bản thành các bài toán nâng cao. Ví dụ: *Tự ra đề toán từ phép tính: 17 + 5 Bài toán 1: Hoa có 17 nhãn vở, Lan có nhiều hơn Hoa 5 nhãn vở. Hởi Lan có bao nhiêu nhãn vở? Bài toán 2: Sợi dây thứ nhất dài 17cm, sợi dây thứ hai dài hơn sợi dây thứ nhất 5cm. Hỏi sợi dây thứ hai dài bao nhiêu xăng-ti-met? *Phát triển các bài toán cơ bản thành các bài toán nâng cao. Từ hai bài toán trên có thể phát triển thành các bài toán nâng cao như sau: Bài toán 1: Hoa có một số nhãn vở. Nếu Hoa cho lan 5 nhãn vở , thì Hoa còn lại 17 nhãn vở. Hỏi Hoa có bao nhiêu nhãn vở? Bài toán 2: Hoa có 17 nhãn vở, Hoa có ít hơn Lan 5 nhãn vở. Hỏi lan có bao nhiêu nhãn vở? Phần III: Kết luận Dạy học giải toán có lời văn ở lớp 1, lớp 2 chủ yếu là dạy phương pháp giải. Vì vậy trong quá trình dạy học giải toán có lời văn, giáo viên phải quan tâm hướng dẫn học sinh một cách tỉ mỉ, cẩn thận các bước cần thiết của quá trình giải bài toán để học sinh nắm chắc các bước của quá trình giải và rèn kỹ năng thực hiện các bước đó 1 cách thành thạo . Tạo điều kiện để học sinh trình bày ý kiến của mình trong từng bước giải. Khuyến khích học sinh tự đặt đề toán từ một phép tính để các em tập tư duy ngược, tập phát triển ngôn ngữ, tập ứng dụng kiến thức vào các tình huống thực tiễn. Đưa thêm các bài toán có lời văn nâng cao phát triển từ những bài toán cơ bản cho học sinh khá giỏi làm để khắc sâu kiến thức cơ bản của bài toán và rèn luyện được kĩ năng phân tích nhận dạng vấn đề cho HS khi gặp sự lắt léo khác nhau trong các bài toán. Xuân Tân , ngày 10 tháng 5 năm 2010 Người viết Đặng Thị Hà

Một Số Kinh Nghiệm Giải Toán Có Lời Văn Ở Lớp 5

I/ Mở đầu: Dạy học giải toán có lời văn ở Tiểu học nhằm giúp học sinh biết cách vận dụng những kiến thức về toán vào các tình huống thực tiễn, đa dạng, phong phú, những vấn đè thường gặp trong đời sống. Chính vì vậy trong quá trình giải toán đòi hỏi học sinh phải tư duy linh hoạt, lô gich và tích cực, đồng thời phải phát huy các kiến thức và khả năng vốn có của mình vào các tình huống khác nhau. nhờ giải toán mà học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận và những phẩm chát cần thiết của người lao động mới. Dạy học giải toán có lời văn giúp học sinh tự phát hiện, giải quyết vấn đề, tự nhận xét, so sánh, phân tích, tổng hợp , rút ra quy tắc ở dạng khái quát nhất định. Tất cả những điều này đều được thể hiện đầy đủ trong sách giáo khoa toán 5 chương trình tiểu học mới đặc biệt là các bài toán có lời văn. Trong thực tế dạy học ở các trường tiểu học hiện nay việc dạy môn toán còn gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ kiến thức và năng lực sư phạm vững vàng, để tổ chức hoạt động học tập cho học sinh. Giáo viên là người cầm lái giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức khoa học mới của xã hội. Đối với học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 4, 5 nói riêng, kiến thức tự nhiên xã hội trí nhớ phát triển chưa bền vững, tư duy trừu tượng còn hạn chế. Vậy nên khi giải bài toán có lời văn dù đơn giản hay phức tạp, các em còn lúng túng. Đa số các em đọc bài là làm ngay, bỏ qua các bước giải cho từng dạng, thậm chí các em còn bế tắc khi gặp bài toán có lời văn. Bên cạnh đó một số giáo viên còn bất cập khi dạy các bài toán có lời văn, giáo viên chưa hoàn toàn thể hiện đầy đủ ý tưởng bài học. Mặt khác phương pháp dạy học của giáo viên cũng chưa gây được hứng thú học tập cho học sinh. Từ những lý do trên trong quá trình giảng dạy tôi đã tìm tòi nghiên cứu và rút ra được một số kinh nghiệm trong dạy học hình thành kỹ năng giải các bài toán có lời văn ở lớp 5 chương trình tiểu học mới. II/ Thực trạng của vấn đề nghiên cứu: 1 / Thực trạng : Qua trao đổi với các đồng nghiệp ở trường những người đã và đang dạy lớp 5 chương trình tiểu học mới. Đồng thời tôi đã dự giờ thăm lớp, khảo sát chất lượng học sinh. Tìm hiểu việc dạy học bài toán có lời văn ở trường, tôi nhận thấy rằng: Về phía giáo viên: Tất cả giáo viên đều nhiệt tình giảng dạy, quan tâm đến mọi đối tượng học sinh, cố gắng đổi mới phương pháp dạy học một cách tích cực tự giác. Song do thói quen đã hình thành từ nhiều năm dạy chương trình cũ, nên việc sử dụng phương pháp dạy học khi dạy giải các bài toán có lời văn còn nhiều hạn chế. Một số giáo viên chưa đầu tư thời gian nghiên cứu để hiểu dụng ý sách giáo khoa, chưa nắm hết được phương pháp dạy học theo tinh thần đổi mới. Nhiều giáo viên còn phụ thuộc máy móc vào sách giáo viên, chưa chủ động thiết kế bài dạy dẫn đến hạn chế về mặt tiếp thu của học sinh, chưa hướng dãn các em nắm được các bước giải bài toán có lời văn một cách cụ thể, chưa khắc sâu từng dạng toán để học sinh nhận biết. Việc sử dụng kết hợp nhiều phương pháp dạy học và thay đổi hình thức học tập cho học sinh ở một số giáo viên còn hạn chế, nhất là khi sử dụng phương pháp trực quan, khi dạy những bài có khả năng suy luận chưa tạo ra nhiều tình huống có vấn đề. Trong giờ dạy giáo viên còn nói nhiều, giảng giải nhiều, xử lý các tình huống xảy ra còn hạn chế. Tình trạng dạy chay vẫn tồn tại dẫn đến chưa gây được hứng thú trong việc học toán. Chẳng hạn: a. Việc sử dụng phương pháp đàm thoại: – Một số giáo viên khi nêu câu hỏi thiếu chính xác, chưa rõ ràng hoặc quá khó đối với học sinh . – Có những giáo viên nêu rất nhiều câu hỏi nhằm gợi mở cách giải nhưng nêu câu hỏi thường mắc lỗi, câu hỏi quá vụn vặt, học sinh thấy trả lời quá đơn giản sẽ không cần suy nghĩ để tự tìm ra cách giải. b. Việc sử dung phương pháp trực quan: – Giáo viên thường coi trọng phương pháp trực quan mà chưa phát huy hết tác dụng của nó. ở một số giáo viên còn lạm dụng khi sử dung phương pháp trực quan trong việc hướng dẫn giải toán, làm hạn chế suy nghĩ của học sinh khi tìm cách giải. c. Việc tổ chức luyện tập thực hành: -Trong khi học sinh giải toán vào vở (hoạt động cá nhân) lẽ ra chỉ hướng dẫn nhắc nhỏ cá nhân thì giáo viên lại nói to làm mất sự tập trung suy nghĩ của học sinh khác. – Giáo viên chưa chú trọng đến khâu luyện tập khắc sâu kiến thức trên lớp. 1.2 Về phía học sinh: – Do đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học còn ham chơi, hiếu động nên sự tập trung chú ý chưa cao. nhiều khi giáo viên yêu cầu học sinh làm một đường các em làm một nẻo. – Do đặc điểm trí nhớ của học sinh tiểu học chóng nhớ nhưng lại mau quên nên sau khi giáo viên vừa giảng xong học sinh làm vào vở lại sai. – Do các em đọc chưa kỹ đề bài đọc xong là các em làm ngay khi chưa phân biệt đâu là dữ kiện, đâu là điều kiện của bài toán. – Do các em còn lúng túng nên chưa nắm vững được các bước giải bài toán có lời văn . – Các em nhận biết dạng toán còn mơ hồ dẫn đến chưa biết cách giải cụ thể của từng dạng toán. Chưa biết phân tích bài toán hợp thành bài toán đơn để giải. Do không hiểu nên các em không biết bắt đầu từ đâu, dẫn đến câu trả lời sai nhưng đơn vị kèm theo lại ghi đúng, câu trả lời đúng nhưng đơn vị kèm theo lại sai. 1.3 – Về phía phụ huynh: Đa số phụ huynh rất quan tâm đến con em mình thường xuyên động viên nhắc nhở con em học bài, mua sắm đầy đủ đồ dùng sách vở cho học sinh. Tuy vậy vẫn còn một số gia đình chưa quan tâm đến con cái, ỷ lại cho giáo viên không đôn đốc kiếm tra ở nhà, sách vở đồ dùng học tập mua không đầy đủ nên ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em. Thực trạng trên làm ảnh hưởng rất nhất nhiều đến chất lượng dạy và học, nhất là khi dạy học giải bài toán có lời văn như thế học sinh mới chỉ nắm được kiến thức một cách máy móc chưa hình thành được kỹ năng giải. 2/ Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên: Tôi đã tiến hành điều tra phỏng vấn một số học sinh của khối lớp 5 và thấy hầu hết các em nắm chưa vững các bước giải chung của bài toán có lời văn. Các em còn lúng túng khi nhận dạng toán và cách giải của từng dạng toán cụ thể. Tháng 10 năm 2006 tôi đã khảo sát ở lớp 5C kết quả đạt được như sau: Tổng số hs Giỏi Khá Trung bình Yếu SL TL SL TL SL TL SL TL 25 0 0 2 8% 12 48% 11 44% Qua khảo sát cho thấy đa số học sinh đều tóm tắt đề bài sai hoặc chưa chính xác. Câu trả lời còn thiếu. Thực hiện tính sai, danh số kèm theo thường lẫn lộn. – Bên cạnh đó khi gặp một bài toán có thể giải bằng nhiều cách thì học sinh chưa tìm được các cách giải khác nhau mà chỉ dập khuôn theo cách mà cô giáo đã hướng dẫn. B/ Giải quyết vấn đề I/ Các giải pháp thực hiện: 1 / Đối với ban giám hiệu: Quan tâm đến đội ngũ giáo viên dạy lớp 5. Thường xuyên dự giờ thăm lớp góp ý rút kinh nghiệm. Hàng tháng tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo định kỳ. Hội thảo chuyên đề đổi mới phương pháp. 2 / Đối với giáo viên : Soạn bài trước khi lên lớp, không phụ thuộc vào sách giáo viên. Nghiên cứu sách giáo khoa, tài liệu tham khảo về dạy toán đặc biệt là tài liệu về giải bài toán có lời văn. Tự học bồi dưỡng thường xuyên để phục vụ cho bản thân. Tích cực dự giờ, tham gia các buổi hội thảo, trao đổi với đồng nghiệp để tìm ra phương pháp dạy tốt nhất. Sử dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức dạy học để học sinh được học mà chơi, chơi mà học. Giáo viên phải quan tâm đến mọi đối tượng học sinh. Kết hợp chặt chẽ với nhà trường, gia đình để có biện pháp cụ thể. 3/ Đối với học sinh: Học sinh tự giác học và làm bài. Tổ chức cho học sinh hoạt động nắm vững khái niệm toán học, cấu trúc của phép tính, các thuật ngữ toán học. Tổ chức cho học sinh thực hiện các bước giải toán. Rèn kỹ năng giải toán. 4/ Đối với phụ huynh: Quan tâm chăm sóc con em mình về mọi mặt. Mua sắm đầy đủ sách giáo khoa vở bài tập, đồ dùng học tập, sách tham khảo. Thường xuyên kiểm tra bài vở, nhắc nhở, động viên con em học tốt hơn. II/ Các biện pháp: Mục đích của dạy học giải bài toán có lời văn ở tiểu học là giúp học sinh tự mình tìm hiểu được mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm, mô tả quan hệ đó bằng cấu trúc phép tính cụ thể, thực hiện phép tính, trình bày lời giải bài toán. Ngoài ra còn giúp học sinh vận dụng những kiến thức toán học để rèn luyện kỹ năng thực hành, với những yêu cầu được thực hiện một cách đa dạng phong phú. Nhờ học giải toán mà học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận và những phẩm chất của người lao động mới. Để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục cũng như nâng cao chất lượng dạy học toán, giúp học sinh khắc phục những sai lầm khi giải bài toán có lời văn. Với kinh nghiệm giảng dạy của bản thân , tôi đã sử dụng các biện pháp sau để dạy học góp phần hình thành kỹ năng giải toán cho học sinh lớp 5C. Biện pháp 1: Hình thành kỹ năng cơ bản khi giải toán có lời văn khi dạy bài toán có lời văn giáo viên cần hướng dẫn học sinh thưc hiện đầy đủ các bước giải sau: Bước 1: Tổ chức cho học sinh tìm hiểu nội dung bài toán . Bước 2: Tìm cách giải bài toán. Bước 3: Thực hiện cách giải và trình bày bài giải. Bước 4: Kiểm tra bài giải. Các biện pháp cụ thể đối với các bước như sau: Bước 1: Tổ chức cho học sinh tìm hiểu nội dung bài toán. – Bất kỳ bài toán nào học sinh cũng không thể bỏ qua được bước 1. Tránh được thói quen xấu cho học sinh là vừa đọc đề bài xong, chưa hiểu nội dung đề bài các em đã vội vàng thực hiện bài giải. Đồng thời cũng tránh được tình trạng không biết ghi lời giải như thế nào cho phù hợp chính vì vậy học sinh phải đọc kỹ đề bài ( đọc to, đọc nhỏ, đọc thầm, đọc bằng mắt) để nhận biết ban đầu về bài toán. – Tìm hiểu một số từ, thuật ngữ quan trọng để hiểu nội dung bài toán. Ví dụ: (Bài tập 3 Trang 46 ) Trong vườn thú có 6 con sư tử. Trung bình mỗi ngày một con ăn hết 9 kg thịt. Hỏi cần bao nhiêu tấn thịt để nuôi số sư tử đó trong 30 ngày? Cho học sinh tìm hiểu thuật ngữ:ảyTrung bình mỗi ngày” nghĩa là gì? – Nắm bắt bài toán cho biết cái gì? bài toán yêu cầu phải tìm cái gì? cho dù bài toán được cho dưới dạng văn bản hay tóm tắt bằng lời, mô hình, hình vẽ + Biết trong vườn có 6 con sư tử và một con ăn hết 9 kg thịt + Tìm số kg thịt cần để sư tử ăn trong 30 ngày. Bước 2: Tìm cách giải bài toán. – Bài toán được tóm tắt lại một cách ngắn gọn, làm nổi bật mối quan hệ giữa các yếu tố đã cho và yếu tố phải tìm. giáo viên phải giúp học sinh có kỹ năng tóm tắt đề, nhưng tóm tắt bằng cách nào và tóm tắt như thế nào lại phụ thuộc vào bài toán, dạng toán hoặc có thể bài toán được tóm tắt bằng nhiều cách khác nhau như: Tóm tắt bằng lời, tóm tắt bằng hình vẽ, tóm tắt bằng sơ đồ. Không nhất thiết học sinh phải tóm tắt theo giáo viên, nhưng phải đúng và phù hợp với đề bài đã cho. Ví dụ: (Bài tập 4 trang 49 SGK toán 5 ) Mua 12 hộp đò dùng học toán hết 180 000 đồng. Hỏi mua 36 hộp đồ dùng học toán như thế hết bao nhiêu tiền?. Cách 1: 12 hộp : 180 000 đồng. 36 hộp : ? đồng. Cách 2: 12 hộp : 180 000đồng ? đồng 36 hộp : – Sau khi tóm tắt xong cho học sinh diễn đạt bài toán thông qua tóm tắt (không nhìn đề toàn mà nhìn vào tóm tắt, học sinh tự nêu bài toán theo sự hiểu biết và theo ngôn ngữ của từng em). * Lập kế hoạch giải toán: – Xác định trình tự giải bài toán theo các thông thường xuất phát từ câu hỏi của bài toán đi đến các yếu tố đã cho. Bài 3 trang 46 Tìm lượng thịt để 6 con sư tử ăn trong 1 ngày ? + Số lượng thịt để 6con sư tử ăn trong 30 ngày? Bước 3: Cách giải. Bài giải: Lượng thịt cần thiết để nuôi 6 con sư tử trong một ngày là: 9 x 6 = 54 ( Kg ) Lượng thịt cần thiết để nuôi 6 con sư tử đó trong 30 ngày là: 54 x 30 = 1620 ( Kg ) 1620 Kg = 1, 620 tấn ( hay 1, 62 tấn ) Đáp số: 1, 620 tấn ( hay 1, 62 tấn) Bài 4 trang 49 Bài giải: Cách 1: Giá tiền mỗi hộp đồ dùng học toán là: 180 000 : 12 = 15 000 ( đồng ) Số tiền mua 36 hộp đồ dùng học toán là: 15 000 x 36 = 540 000 ( đồng ) Cách 2: 36 hộp gấp 12 hộp số lần là: 36 : 12 = 3 ( lần ) Số tiền mua 36 hộp đồ dùng học toán là: 180 000 x 3 = 540 000 ( đồng ) Đáp số: 540 000 ( đồng ) Bước 4: Kiểm tra bài giải. – Kiểm tra số liệu, kiểm tra tóm tắt, kiểm tra phép tính, kiểm tra câu lời giải, kiểm tra kết quả cuối cùng có đúng với yêu cầu bài toán không. Nếu sai thì đọc lại đề, kết hợp với mối liên hệ giữa các dữ liệu đã cho và xem kết quả tìm được có phù hợp không hoặc cho học sinh giải theo cách khác, rồi so sánh kết quả tìm được xem có trùng lặp không. – Tổ chức rèn kỹ năng giải toán: Sau khi học sinh đã biết cách giải (có kỹ năng giải toán), để định hình kỹ năng ấy, giáo viên tổ chức rèn kỹ năng giải toán cho học sinh. Rèn kỹ năng giải toán nghĩa là cho học sinh vận dụng kỹ năng vào giải các bài toán khác nhau về hình thức. Giáo viên có thể rèn kỹ năng từng bước hoặc tất cả các bước giải toán (tuỳ theo tình hình thực tế của lớp). 2/ Biện pháp 2: * Rèn kỹ năng nhận dạng toán. Trong quá trình dạy học người giáo viên chỉ chú trọng đến rèn kỹ năng cơ bản khi giải toán, mà không rèn kỹ năng cơ bản nhận dạng toán là một sai lầm. Giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh biết thực hiện đầy đủ 4 bước giải một bài toán cụ thể mà không quan tâm đến việc nhận dạng toán. Còn học sinh thì thực hiện một cách máy móc. Chính vì vậy khi đứng trước một dạng toán mới, học sinh chỉ nghĩ đến việc áp dụng các thao tác đã biết để giải. Nếu không áp dụng được thì coi như không giải được bài toán đó. Vì vậy, dẫn đến tình trạng không biết phải làm thế nào với các số đã cho ở đề bài (học sinh thấy nhiều hơn thì cộng, ít hơn thì trừ, gấp lên số lần thì nhân, kém số lần thì chia), không biết làm phép tính đó để làm gì, nên không biết ghi lời giải ra sao. Chính vì thế mà học sinh chỉ có khả năng giải các bài toán đơn giản, chưa biết phân tích bài toán hợp thành các bài toán đơn giản để giải. Do học sinh chưa nắm được đặc trưng của từng dạng toán và chưa nắm được cách giải của từng dạng nên kỹ năng giải toán của học sinh còn chậm và chưa chính xác. Vì vậy trong dạy học giải toán có lời văn, giáo viên càn giúp học sinh nắm được các dạng toán. . Từ việc nắm vững các dạng toán sẽ giúp học sinh tìm ra cách giải bài toán nhanh hơn, đúng hơn, qua đó gây được hứng thú học tập, suy nghĩ của học sinh. Chính vì vậy khi giải bài toán có lời văn trước tiên cần cho học sinh đọc kỹ đề bài và giúp học sinh xác định dạng toán, từ đó các em có cách giải quyết. * Một số chú ý đối với giáo viên: Khi giải bài toán có lời văn thông thường các em chỉ viết bước 3 (bước thực hiện bài giải) còn những bước khác học sinh tư duy, suy nghĩ hoặc viết ra giấy nháp cho nên giáo viên không kiểm soát được dẫn đến một số học sinh thực hiện bài giải thường bị sai (cả về lời giải và phép tính). Vì vậy khi giải bài toán có lời văn học sinh cần thực hiện đúng các bước, đồng thời cũng giúp học sinh nhận dạng toán. Từ đó các em tìm được cách giải nhanh và đúng. Bất cứ một bài toán nào cũng đòi hỏi đến kỹ năng tính toán, cho nên giáo viên phải luôn rèn cho học sinh kỹ năng thực hiện các phép tính một cách thành thạo thông qua các giờ ôn luyện, tự học. C- Kết luận 1/ Kết quả nghiên cứu: Sau khi vận dụng một số biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn vào dạy học ở lớp mình, tôi đã hướng dẫn học sinh theo những bước cụ thể rõ ràng, không vận dụng rập khuôn, máy móc đối với từng loại toán; giúp học sinh nhận dạng toán và định hướng được cách giải của từng dạng chính là đã tập trung được sự chú ý của học sinh. Các em hoạt động tích cực, tự giác, tiếp thu bài tốt, nhớ lâu, biết vận dụng kỹ năng vào bài thực hành và có kết quả cao. Bước đầu đã hình thành ở học sinh kỹ năng giải toán có lời văn. Kết quả khảo sát chất lượng ở lớp 3A trong tháng 3 năm 2006 như sau: Tổng số hs Giỏi Khá Trung bình Yếu SL TL SL TL SL TL SL TL 25 3 12% 7 28% 15 60% 0 0 % Từ kết quả trên cho thấy học sinh giải được bài toán có lời văn sẽ làm nền tảng để học tốt các môn học khác. Góp phần rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề, phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo, cần cù, làm việc có kế hoạch và điều cơ bản là học sinh đã xác định được “hoạt động học” của mình. Điều quan trọng dạy học giải toán có lời văn ở lớp 5 là giúp học sinh biết cách giải quyết các vấn đề thường gặp trong cuộc sống. Đó chính là sự vận dụng tổng hợp các kiến thức, kỹ năng, phương pháp học trong môn toán ở tiểu học. Khi giải toán có lời văn, học sinh phải biết suy nghĩ khi giải toán, biết vận dụng các thao tác. Nắm được các dạng toán, biết nhận dạng và cách giải của từng dạng. Qua quá trình giảng dạy trực tiếp ở lớp 5C, học sinh đã hình thành kỹ năng giải toán có lời văn. Các em biết cách trình bày bài giải đúng, nhiều em còn biết giải bài toán bằng các cách khác nhau. 2/ Kiến nghị đề xuất: – Hiện nay sách tham khảo để phục vụ cho giảng dạy môn toán rất hạn chế. Đề nghị nhà trường bổ sung nhiều hơn về chủng loại để giáo viên có tài liệu nghiên cứu tham khảo. – Nếu có thể nhà trường nên tổ chức hội thảo chuyên đề về giải toán có lời văn ở tiểu học. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hải Nhân, ngày 25 tháng 3 năm 2007 Người viết SKKN : Lê Thị Tý.

Lý Thuyết Bài Toán Có Lời Văn. Giải Bài Toán Có Lời Văn Toán 1

– Nhận biết bài toán có lời văn gồm các số đã cho (điều đã biết) và số cần tìm (điều chưa biết); – Hiểu đề toán cho gì ? Hỏi gì ? – Biết giải bài toán gồm: Câu lời giải, phép tính và đáp số. Dạng 1: Hoàn thành đề toán dựa vào hình vẽ.

– Dựa vào hình ảnh đã cho, đếm số lượng và điền số vào chỗ chấm để hoàn thành đề toán.

Ví dụ:

Điền số thích hợp vào chỗ trống

Có …..học sinh đang đợi xe buýt, sau đó có ………bạn đến thêm. Hỏi lúc này, có tất cả mấy bạn học sinh đợi xe buýt ?

Giải:

Quan sát hình ảnh, nhóm bên phải có (6) học sinh, thêm (3) bạn học sinh khác đang đến.

Em điền được các số vào chỗ trống thành đề toán như sau:

Có (6) học sinh đang đợi xe buýt, sau đó có (3) bạn đến thêm. Hỏi lúc này, có tất cả mấy bạn học sinh đợi xe buýt ?

Dạng 2: Tóm tắt bài toán

– Từ đề toán, em xác định các số liệu đã biết và yêu cầu của bài toán.

– Viết tóm tắt đơn giản các dữ kiện vừa tìm được.

Ví dụ: Điền số thích hợp để hoàn thành tóm tắt của bài toán sau:

Hoa có (4) quả bóng bay. Nam có (3) quả bóng bay. Cả hai bạn có tất cả bao nhiêu quả bóng ?

Bài làm

Dựa vào đề toán, em điền được các số đã cho vào tóm tắt như sau:

Hoa: (4) quả bóng

Nam: (3) quả bóng

Cả hai: ……quả bóng ?

Dạng 3: Giải bài toán có lời văn.

– Đọc và phân tích đề toán, xác định các giá trị đã biết, câu hỏi của bài toán rồi tóm tắt đề bài.

– Tìm cách giải cho bài toán: Dựa vào các từ khóa trong đề bài như “tăng thêm”, “bớt đi”, “nhiều hơn”, “ít hơn”, “tất cả”, “còn lại”….để xác định phép toán phù hợp.

– Trình bày lời giải của bài toán: lời giải, phép tính, đáp số.

– Kiểm tra lại lời giải, kết quả vừa tìm được.

Ví dụ: Hoa có (4) quả bóng bay. Nam có (3) quả bóng bay. Cả hai bạn có tất cả bao nhiêu quả bóng ?

Muốn tìm số bóng của cả hai người thì cần lấy số bóng của Hoa cộng với số bóng của Nam.

Giải:

Cả hai bạn có số quả bóng là:

(4 + 3 = 7) (quả bóng)

Đáp số: (7) quả bóng.

Cập nhật thông tin chi tiết về Nghiên Cứu Giải Toán Có Lời Văn Ở Lớp 1 trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!