Xu Hướng 5/2023 # Nobel Y Học 2022 Và Những Cơ Bản Về Giải Thưởng Nobel # Top 12 View | Ictu-hanoi.edu.vn

Xu Hướng 5/2023 # Nobel Y Học 2022 Và Những Thông Tin Cơ Bản Về Giải Thưởng Nobel # Top 12 View

Bạn đang xem bài viết Nobel Y Học 2022 Và Những Cơ Bản Về Giải Thưởng Nobel được cập nhật mới nhất trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Nobel Y học 2018 và những thông tin cơ bản về Giải thưởng Nobel

Chiều 1-10-2018 (theo giờ Việt Nam), Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển tại Stockholm đã công bố tên đồng chủ nhân của giải Nobel Y học (tên chính thức là Nobel Y sinh) năm 2018 cho hai nhà khoa học James P Allison (người Mỹ) và Tasuku Honjo (người Nhật Bản). Đây là giải Nobel đầu tiên được công bố trong “mùa” Nobel 2018.

1. Vinh danh hai nhà khoa học người Mỹ và Nhật Bản Ủy ban giải Nobel Y học của Viện Karolinska (Thụy Điển) đã công bố giải thưởng nói trên lúc 16 giờ 30 phút (giờ Việt Nam). Hai  nhà khoa học này được vinh danh vì công trình nghiên cứu điều trị ung thư bằng việc ức chế miễn dịch âm tính, một cách tiếp cận mang tính cách mạng trong chữa trị bệnh ung thư. Ủy ban Nobel cho biết trong lúc ung thư đang cướp đi hàng triệu mạng sống mỗi năm và là một trong những thách thức sức khỏe nghiêm trọng nhất của nhân loại, công trình của hai nhà khoa học tìm ra cách để kích thích hệ thống miễn dịch để chống lại và tự đào thải tế bào ung thư, và mở ra nguyên lý mới cho việc điều trị bệnh này. Nhà miễn dịch học James P. Allison, 70 tuổi, người Mỹ, là Giám đốc Hội đồng cố vấn khoa học của Viện Nghiên cứu Ung thư (CRI), hiện làm việc tại trường Đại học Texas (Mỹ). Trước khi nhận giải Nobel cho công trình khám phá cách điều trị ung thư bằng ức chế miễn dịch âm tính, ông đã dành nhiều năm nghiên cứu về cơ chế phát triển và kích hoạt thụ thể tế bào T. Ông cũng là nhà khoa học đầu tiên tìm ra cách tách chuỗi protein phức tạp của kháng nguyên thụ thể tế bào T. Nhà khoa học Tasuku Honjo, 56 tuổi, là một nhà miễn dịch đang làm việc tại Đại học Kyoto, Nhật Bản. Ông nổi tiếng với việc xác định protein chết được lập trình, và được biết đến với nhận dạng phân tử của cytokine: KL-4 và IL-5 cũng như phát hiện ra Cytidine Deaminase. Cùng nhận giải Nobel Y học năm nay, hai nhà khoa học trên sẽ cùng chia sẻ giải thưởng trị giá 9 triệu kronor Thụy Điển (hơn 1 triệu USD). Từ năm 1901 đến 2017, đã có 108 giải Nobel Y Sinh được trao, trong số những người thắng giải có 12 phụ nữ. Chủ nhân trẻ tuổi nhất của giải Nobel Y học là ông Frederick Banting, nhà sinh lý học người Canada khám phá ra hormone tuyến tụy insulin điều trị bệnh tiểu đường. Ông nhận giải năm 1923, khi mới 32 tuổi. Chủ nhân lớn tuổi nhất của Giải Nobel Y học là bác sĩ Francis Peyton Rous, nhận giải năm 1966 khi ông 87 tuổi, với công trình nghiên cứu khám phá vai trò của các virus trong việc truyền một số loại bệnh ung thư. 2. Giải Nobel Y học trong 10 năm gần đây – Năm 2007: Ba nhà khoa học gồm Tiến sĩ Mairo R.Capecchi (người Mỹ gốc Italy), Tiến sĩ Oliver Smithies (người Mỹ) và Tiến sĩ Martin J.Evans (người Anh) cùng vinh dự được nhận giải thưởng Nobel Y học năm 2007 cho những khám phá mang tính đột phá về gien đã trở thành nền tảng của ngành y sinh học thế giới thế kỷ XXI. – Năm 2008: Ba nhà khoa học, trong đó, có hai nhà khoa học người Pháp là: bà Francoise Barre-Sinoussi và Luc Montagnier cùng vinh dự nhận giải thưởng Nobel Y học 2008 vì đã khám phá ra virus gây suy giảm hệ miễn dịch ở người, tức virus HIV, dẫn đến bệnh AIDS; và một nhà khoa học người Đức Harald zur Hausen (Haran du Hauxen), với nghiên cứu phát hiện nguyên nhân gây ra bệnh ung thư cổ tử cung ở  phụ nữ là do virus. – Năm 2009: Ba nhà khoa học người Mỹ gồm Elizabeth Blackburn, Carol Greider và Jack Szostak cùng trở thành các đồng chủ nhân giải thưởng Nobel Y học năm 2009, vì đã tìm ra cách thức các nhiễm sắc thể được sao chép một cách hoàn chỉnh trong quá trình phân chia của tế bào và được bảo vệ để không bị thoái hóa. – Năm 2010: Nhà y sinh học người Anh Robert Edward đoạt giải thưởng Nobel Y học năm 2010 vì có công lớn trong việc tìm ra kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), mang lại niềm vui làm cha-mẹ cho hàng triệu cặp vợ chồng hiếm muộn con. – Năm 2011: Bộ ba các nhà khoa học, gồm Bruce Beutler (người Mỹ), Jules Hoffmann (người Lucxembourg) và Ralph Steinman (người Canada) đã đoạt giải Nobel Y học 2011 cho những công trình nghiên cứu đột phá về hệ thống miễn dịch. – Năm 2012: Hai nhà khoa học người Anh John Gurdon và nhà khoa học người Nhật Bản Shinya Yamanaka đã đoạt giải Nobel Y học 2012 với công trình nghiên cứu mang tính đột phá về tế bào gốc. – Năm 2013: Hai nhà khoa học người Mỹ là James Rothman và Randy Schekman, cùng nhà khoa học người Đức Thomas Suedhof đã đoạt giải Nobel Y học 2013, vì phát hiện ra “cơ chế chuyển động của túi tiết – bộ máy vận chuyển chính trong các tế bào của cơ thể con người”. Phát hiện này rất hữu ích cho việc điều trị các bệnh thần kinh, tiểu đường và các rối loạn trong hệ miễn dịch. – Năm 2014: Ba nhà khoa học, gồm: nhà khoa học người Mỹ gốc Anh John O’Keefe và 2 vợ chồng nhà khoa học người Na Uy là May-Britt Moser và Evard Moser, đã đoạt giải Nobel Y học 2011 vì có công phát hiện ra các tế bào hình thành hệ thống định vị (GPS) bên trong bộ não. Với phát hiện này, các nhà khoa học đã hiểu được cơ chế dẫn đến chứng bệnh mất trí nhớ về không gian ở một số người. – Năm 2015: Ba nhà khoa học gồm William Campbell (người gốc Ireland), Satoshi Omura (người Nhật Bản) và Youyou Tu (người Trung Quốc) đã đoạt giải Nobel Y học 2015 với công trình nghiên cứu trong điều trị các bệnh do ký sinh trùng gây ra. Những nghiên cứu này đã mang lại cho loài người các công cụ quan trọng, nhằm đối phó với những dịch bệnh ảnh hưởng đến hàng triệu người mỗi năm”. – Năm 2016: Nhà khoa học người Nhật Bản Yoshinori Ohsumi đã đoạt giải Nobel Y học 2016 với công trình nghiên cứu các cơ chế phân tách và tái tạo các thành phần tế bào. Đây là thành tựu khám phá ra cơ chế tự thực, một quá trình cơ bản trong tế bào. – Năm 2017: Ba nhà khoa học người Mỹ là Jeffrey C. Hall, Michael Rosbash và Michael W. Young đoạt giải Nobel Y học 2017 vì những khám phá về cơ chế phân tử điều khiển nhịp sinh học ngày đêm. Khám phá về nhịp sinh học ngày đêm, đồng hồ sinh học này giúp chúng ta hiểu được bí ẩn tại sao con người cần ngủ và tại sao giấc ngủ lại diễn ra.

3. Những thông tin cơ bản về Giải thưởng Nobel 

             * Giải thưởng cao quý Nobel Giải Nobel,là một giải thưởng quốc tế được công bố hàng năm kể từ năm 1901 để vinh danh những cá nhân đạt thành tựu trong các lĩnh vực: Vật lý, Hoá học, Y học, Văn học và Hoà bình; riêng giải Nobel Hoà bình có thể được trao cho cá nhân hay một tổ chức. Đến năm 1968, Ngân hàng Thụy Điển đưa thêm vào hệ thống giải một giải thưởng về lĩnh vực Kinh tế để tưởng nhớ nhà khoa học Alfred Nobel, người đã sáng lập ra giải Nobel. Một giải Nobel được trao cho tối đa 3 người. Nếu một giải thưởng bị từ chối hoặc không được chấp nhận, số tiền thưởng sẽ được trả vào quỹ. Lễ trao giải Nobel Y học, Vật lý, Hóa học, Văn học, Kinh tế được tiến hành tại Stockholm, Thụy Điển và lễ trao giải Nobel Hòa bình diễn ra tại Oslo, Na Uy.

* Quy trình bầu chọn Giải Nobel  Vào tháng 9 của năm trước khi trao giải, Ủy ban Nobel bí mật gửi mẫu đề cử cho 3.000 chuyên gia là những người từng được nhận giải Nobel, thành viên của đơn vị trao thưởng, các chuyên gia trong lĩnh vực Vật lý, Hóa học, Sinh học hoặc Y học, các giáo sư đầu ngành của nhiều trường đại học và các viện nghiên cứu nổi tiếng trên thế giới.  Tháng 2 của năm trao giải là thời hạn cuối cùng nộp hồ sơ. Ủy ban Nobel sẽ sàng lọc và lựa ra các ứng cử viên. Sau đó, hội đồng chọn ra khoảng từ 250-350 người lọt vào vòng tiếp.  Từ tháng 3 đến tháng 5, các chuyên gia đánh giá công trình của các ứng cử viên, sau đó Ủy ban Nobel tiến cử người đạt giải để Viện Hàn lâm chọn trên đa số phiếu bầu. Tháng 6 đến tháng 8, Ủy ban Nobel tập hợp các báo cáo có kèm theo danh sách tiến cử gửi cho Viện Hàn lâm. Bản báo cáo này được các thành viên hội đồng cùng ký tên. Vào đầu tháng 10, Viện Hàn lâm chọn ra người đoạt giải dựa trên đa số phiếu bầu. Đây là lựa chọn cuối cùng, sau đó chính thức công bố tên người đoạt giải.  Việc bỏ phiếu để chọn ra người đoạt giải Nobel được giữ bí mật đến giờ chót. Tuy nhiên, các thành viên của hội đồng bình chọn – bao gồm quan chức chính phủ, giáo sư đại học, nhà lập pháp và cả những người từng đoạt giải Nobel trước đây – có quyền tiết lộ cái tên hoặc tổ chức mà họ đã đề cử. Hàng năm, trước ngày 15-11, Ban tổ chức sẽ phải công bố danh sách những người được nhận phần thưởng cao quý này. – Giải Nobel Vật lý, Hóa học, Văn học và Kinh tế: Do Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển quyết định.  – Giải Nobel Y học: Do Ủy ban Nobel của Viện Carolin (được thành lập năm 1810) quyết định. – Giải Nobel Hòa bình: Do Ủy ban Nobel thuộc Quốc hội Na Uy quyết định.

* Giá trị giải thưởng Nobel Chủ nhân của giải Nobel sẽ được trao giấy chứng nhận, huy chương vàng cùng phần thưởng tiền mặt. Số tiền phụ thuộc vào thu nhập của Hiệp hội Nobel. Ban đầu, hơn ba người có thể cùng nhận một giải Nobel. Tuy nhiên đến năm 1968, điều lệ của Tổ chức Nobel được sửa đổi hạn chế chỉ có 3 người đồng nhận một giải thưởng. Trong trường hợp đó, mỗi người có thể nhận 1/3 khoản tiền hoặc 2 người có thể chia nhau 50% số tiền thưởng trong khi người thứ ba nhận 50% còn lại. Nếu chưa được trao, số tiền thưởng sẽ được trả lại quỹ.  Năm 2017, Quỹ Nobel quyết định tăng tiền thưởng cho các hạng mục giải Nobel thêm 1 triệu krona (khoảng 120.000 USD) so với mùa giải đó trước, lên 9 triệu krona (khoảng 1,1 triệu USD). Đây là lần điều chỉnh giá trị tiền thưởng đầu tiên kể từ năm 2012 khi Quỹ Nobel quyết định giảm giá trị tiền thưởng 20% mỗi hạng mục, trong bối cảnh phải cân đối ngân sách trong dài hạn. 

* Từ chối giải thưởng Nobel Lý do dẫn tới hành động từ chối nhận giải Nobel có thể khác nhau, song chủ yếu là do áp lực từ bên ngoài. Nếu một giải thưởng bị từ chối hoặc không được chấp nhận thì số tiền thưởng sẽ được trả lại vào quỹ. Trong quá khứ, đã có trường hợp người giành giải từ chối nhận phần thưởng, vì vậy bên cạnh tên của người nhận giải trong danh sách những người giành giải Nobel sẽ có dòng chữ “từ chối nhận giải”. Ví dụ, vào năm 1935, nhà văn người Đức Carl von Ossietzky đã được trao giải Hoà bình khi ông đang bị phát xít cầm tù vì công bố các thông tin về việc Đức bí mật tái vũ trang. Adolf Hitler giận dữ và cấm Carl von Ossietzky nhận giải thưởng. Không chỉ vậy, Hitler còn cấm tất cả người Đức nhận giải Nobel nếu được trao trong thời gian cầm quyền của Hitler. Cũng có một số trường hợp, người được trao giải chỉ  nhận huy chương vàng cùng với bằng khen. Do bản chất, giải Nobel văn học và hoà bình thường gây nhiều tranh cãi so với các Giải Nobel khác. Cho tới nay, giải Nobel không được trao vào các năm 1940, 1941 và 1942. Giải Nobel văn học không được trao vào năm 1914, 1918 và 1943.

* Alfred Bernhard Nobel – người cống hiến trọn đời cho khoa học  Alfred Nobel sinh ngày 21-10-1833 tại Stockholm, Thụy Điển. Cha của ông là một kỹ sư kiêm nhà sáng chế và mẹ là con một gia đình giàu có. Tuy nhiên, đúng thời điểm ông được sinh ra thì công việc của cha ông gặp khó khăn và gia đình rơi vào tình trạng phá sản. Khi lên 9 tuổi, ông theo gia đình tới nước Nga lập nghiệp. Tại đây, ông và anh em trai được các gia sư dạy những bài học đầu tiên về lòng nhân đạo và khoa học tự nhiên. 17 tuổi, Nobel đã thông thạo các ngoại ngữ Anh, Nga, Pháp, Phần Lan và Đức. Sở thích chính của ông lúc bấy giờ là thơ và văn học Anh, cũng như vật lý và hóa học. Vào thời gian rỗi, ông viết một số tiểu thuyết, thơ và kịch. Vào năm 1860, Nobel bắt đầu tiến hành các thí nghiệm với nitroglycerin, một chất lỏng dễ nổ. Ông đã nghĩ tới giải quyết vấn đề an toàn và tìm cách kiểm soát hiệu quả quá trình nổ của nó trong khi ứng dụng vào các công trình xây dựng. Năm 1867, Nobel tìm ra quặng kixegur, trộn với nitroglycerine thành hỗn hợp “Dinamít” (Dynamite) có thể quản lý được mức độ nổ và an toàn trong bảo quản và vận chuyển.  Ngoài việc nghiên cứu ra thuốc nổ, Alfred Nobel còn nghiên cứu ra lụa nhân tạo, cao su và da nhân tạo… Đến cuối đời, Nobel nhận được tất cả 350 bằng sáng chế. Lợi nhuận từ kinh doanh của ông lên đến mức khổng lồ. Toàn bộ tài sản của ông năm 1895 khoảng 9 triệu USD. Đó là một con số mà không một nhà tư bản nào trên thế giới có thể sánh được ở thời điểm đó. Vào ngày 27-11-1895, Nobel ký di chúc cuối cùng tại Câu lạc bộ Thuỵ Điển-Na Uy ở Paris, Pháp. Ngày 10-12-1896, ông qua đời do mắc bệnh xuất huyết não tại nhà riêng ở San Remo, Italy. Trong di chúc, Nobel đã ghi rằng tài sản của ông sẽ được sử dụng làm phần thưởng cho những người mà nghiên cứu của họ có lợi nhất cho nhân loại. Năm 1900,  Hiệp hội Nobel được thành lập theo di chúc của ông. Đó là một tổ chức tư nhân quản lý các tài sản mà Nobel di chúc lại làm phần thưởng cho những cá nhân đoạt giải Nobel. Tuy còn nhiều ý kiến khác nhau về cách xét giải, nhưng phần lớn những người được nhận giải thưởng Nobel đều là những người có cống hiến vĩ đại cho nhân loại. Cùng với giải, tấm lòng cao thượng và nhân đạo của người lập ra nó, Alfred Nobel sẽ mãi mãi được nhân loại ghi nhận./.

(P.V Tổng hợp)

Nguồn: TTXVN]

Giải Nobel Y Học Năm 2008

06.10.2008

Viện Hàn Lâm Hoàng Gia Thụy Điển vừa công bố giải Nobel về lĩnh vực Y học. Giải thưởng năm nay được trao cho bác sĩ, nhà khoa học người Đức Harald zur Hausen, người phát hiện ra Virus gây ung thư cổ tử cung ( papilloma virus). Hai nhà khoa học người Pháp là Prançoise Barré-Sinoussi và Luc Montagnier cùng được vinh danh trong giải thưởng này với công lao trong nghiên cứu nguyên nhân gây hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (acquired immunodeficiency syndrome: AIDS) ở người – loại virus có tên human immunodeficiency virus mà ta quen gọi là virus HIV.

Ung thư do virus là lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu của zur Hausen. Năm 1976 ông công bố bài báo với giả thuyết papillomavirrus (loại virus có thể xâm nhiễm và gây bệnh qua da và niêm mạc) có khả năng gây ung thư cổ tử cung (trong số các papillomavirus, một số có khả năng gây nhiễm qua đường sinh dục và có khả năng gây khối u). Các nghiên cứu tiếp theo cho thấy nhiều týp papillomavirus ở người là nguyên nhân của hầu hết các loại tiền ung thư và ung thư cổ tử cung. Một thời gian dài zur Hausen tập trung nghiên cứu vác-xin cho bệnh này. Ba muơi năm sau công bố giả thuyết bệnh, vào năm 2006, vác-xin phòng bệnh đã được biết đến rộng rãi trên thị trường.

Với những đóng góp khoa học này, Harald zur Hausen được trao các giải thưởng: Giải thưởng mang tên Robert Koch (1975); giải thưởng Charles S. Mott (1986); giải thưởng Paul-Ehrlich-và-Ludwig-Darmstaedter (1994); Huy chương Virchow của ĐH Wurzburg (2000); giải thưởng Đại thập tự (2004); phần thưởng William B. Coley cho nghiên cứu miễn dịch học cơ bản và ung thư (2006); giải Nobel y học – sinh lý học 2008.

Harald zur Hausen được các trường ĐH Chicago, Umeå, Praha, Salford, Helsinki và Erlangen-Nuremberg cấp bằng tiến sỹ danh dự.

Françoise Barré-Sinoussi sinh ngày 30 tháng 7 năm 1947 tại Paris (Pháp) và làm việc tại Viện Pasteur Paris từ đầu những năm 70. Bà nghiên cứu chuyên sâu về retroviruses. Những thành công trong nghiên cứu của bà đã giúp con người tìm ra virus HIV vào năm 1983. Cũng như những bệnh do vi sinh vật khác, việc tìm ra HIV là bước khởi đầu để con người tìm kiếm những phương pháp chẩn đoán và biện phát phòng, trị bệnh. Những kết quả nghiên cứu về hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS), con đường lây truyền HIV từ mẹ sang con là những nội dung chính trong hơn 200 bài báo khoa học và hơn 250 báo cáo tại các hội nghị khoa học quốc tế mà bà là đồng tác giả. Cùng với những công trình đó, bà đã đào tạo, bồi dưỡng nhiều nhà khoa học, chuyên gia trẻ về HIV/AIDS cho khoa học thế giới.

Barré-Sinoussi là thành viên nhiều hiệp hội, tổ chức nghiên cứu HIV/AISD của Pháp và thế giới. Bà cũng là tư vấn cho Tổ chức Y tế thế giới (WHO).

Từ năm 1980, Barré-Sinoussi bắt đầu điều phối nhiều mạng lưới đa lĩnh vực thuộc các chương trinh phòng, chống HIV/AIDS tại các nước đang phát triển.

Với những đóng góp cho nền y học thế giới, ngày hôm nay vinh dự giành cho bà chính là giải Nobel Y học-Sinh lý học 2008 cùng với hai đồng nghiệp của mình, một người đồng hương (nhà virus học Luc Montagnier) và một GS người Đức, ông Harald zur Hausen.

Tuy vậy. hai nhà khoa học vẫn không dừng chỉ trích nhau sau đó cho đến khi nguyên tổng thống Pháp Mitterrand và nguyên tổng thống Mỹ Reagan gặp nhau và cho rằng sự việc cần được giải quyết. Các nhà khoa học thống nhất rằng công trạng nên được chia đều và cả hai tên gọi virus LAV và HTLV-III) được bỏ vào năm 1986 để thay bằng tên virus gây suy giảm miễn dịch ở người (Human immunodeficiency virus; HIV – cách viết theo tiếng Anh và virus de l’immunodéficience humaine (VIH) – tiếng Pháp). Tháng 11 năm 1990, Cơ quan bảo vệ tính liêm chính khoa học thuộc Viện y tế Hoa kỳ ủy quyền cho nhóm nghiên cứu của hãng Roche phân tích mẫu còn lưu trữ của Viện Pasteur và của Phòng thí nghiệm sinh học tế bào ung thư trong khoảng thời gian từ năm 1983 đến 1985. Kết luận được đưa ra là virus được Robert Gallo tìm thấy giống với những gì Montagnier đã phát hiện được trước đó.

Luc Montagnier là đồng sáng lập viên của Quỹ nghiên cứu và phòng chống AIDS thế giới, tham gia chỉ đạo chương trình hợp tác nghiên cứu virus quốc tế. Ông đã được trao hơn 20 giải thưởng khoa học lớn trong đó có phần thưởng cao quý, giải Nobel Y cho lĩnh vực Y học – Sinh lý học 2008.

Lê Minh Khôi & Nguyễn Bá Tiếp

Deustchlandfunk

Nobelprize.org [1]

Đồng Hồ Sinh Học Và Giải Nobel Y Học 2022

Khám phá về nhịp sinh học ngày đêm, đồng hồ sinh học, này giúp chúng ta hiểu được bí ẩn: Tại sao con người cần ngủ?, và Tại sao giấc ngủ lại diễn ra?

Nhịp sinh học là gì? Có bao nhiêu loại nhịp sinh học?

Nhịp sinh học (biological rhythm) là chu kỳ tự nhiên về những thay đổi trong cơ thể như nồng độ sinh hóa chất hoặc các chức năng. Nhịp sinh học đóng vai một đồng hồ “chủ” đồng bộ hóa các đồng hồ khác trong cơ thể. “Đồng hồ” sinh học này nằm trên não bộ, cấu thành từ hàng ngàn tế bào thần kinh giúp đồng bộ các chức năng và hoạt động thể chất, tinh thần và hành vi đáp ứng với ánh sáng và bóng tối. Tốm lại, đồng hồ điều chỉnh nhiều chức năng bao gồm: thời gian ngủ, sự thèm ăn, thân nhiệt, nồng độ các hormone, sự tỉnh táo, hoạt động thể chất, huyết áp, khả năng phản ứng…

Có bốn loại nhịp sinh học: (1) nhịp sinh học hàng ngày (circadian rhythms, light-dark cycle) chu kỳ 24 giờ bao gồm nhịp điệu sinh lý và hành vi như ngủ; (2) nhịp điệu ngày (diurnal rhythms) nhịp điệu sinh học được đồng bộ hóa với ngày và đêm; (3) nhịp sinh học ngắn (ultradian rhythms) nhịp sinh học với thời gian ngắn hơn và tần suất cao hơn; (4) nhịp sinh học dài (infradian): nhịp kéo dài hơn 24 giờ, như chu kỳ kinh nguyệt.

Nhịp hàng ngày hay “đồng hồ sinh học”

Vào năm 1984, Hall và Rosbash, cộng tác tại Đại học Brandeis, và Young, tại Đại học Rockefeller, độc lập đã phân lập được gen kiểm soát nhịp sinh học hàng ngày (circadian rhythm) ở con ruồi giấm. Gene này, được gọi là period (giai đoạn), mã hoá một protein đặt tên là PER, có nồng độ lượng đỉnh vào ban đêm và giảm vào ban ngày. Số lượng PER được kiểm soát bởi một cơ chế phản hồi ngược âm (negative feedback) ức chế tác dụng của nó.

Sau này, các nhà nghiên cứu khác đã xác định được nhiều gen khác tham gia vào chu kỳ này. Ví dụ, các protein CLOCK và CYCLE cũng điều chỉnh việc sản xuất PER và TIMELESS.

Các protein đồng hồ này được chia sẻ trong các sinh vật từ ruồi giấm đến người. Millar ĐH Edinburgh cho rằng: “Đồng hồ sinh học gần như phổ biến ở các tế bào sinh vật cao cấp chi phối việc tổ chức thời gian của tất cả các tế bào”.

Nobel y học 2017: công trình về đồng hồ sinh học

Ba nhà khoa học Mỹ đã giành được giải Nobel về sinh lý học năm nay nhờ khám phá của họ về bộ máy sinh học siêu nhỏ kiểm soát nhịp điệu sinh học hàng ngày, đồng hồ sinh học, của cơ thể con người.

Ủy ban Nobel, Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển, nhận định “Những khám phá thay đổi mô hình của ba nhà khoa học đã đưa ra những nguyên tắc then chốt của đồng hồ sinh học và mở ra ngàng Thời sinh học (chronobiology)”, và hy vọng rằng “Trong những năm tiếp theo, các thành phần phân tử khác của cơ chế đồng hồ đã được làm sáng tỏ, giải thích tính ổn định và chức năng của nó.”

Đôi điều bàn luận

Đồng hồ sinh học là yếu tố chính của sinh vật sống trên trái đất, nó hiện diện trong mỗi tế bào của mỗi cơ thể, từ sinh vật từ đơn giản đến phức tạp, từ con vi khuẩn nhỏ bé đến một cây đại thụ.

Gần đây, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng mỗi người chúng ta đều có một “kiểu thời gian” (chronotype) khác nhau xác định về mặt di truyền học, nên thời gian ngủ “lý tưởng” trong chu kỳ 24 giờ. Phát hiện này giải thích lý do tại sao lại có người chỉ làm việc ban ngày (morning people, người buổi sáng) và người làm việc thâu đêm (night owl, “cú đêm”). Brian Resnick lập luận là do con người có thể thiết lập lịch trình làm việc riêng cho mình.

Nhiều yếu tố ngoại cảnh, môi trường có thể ảnh hưởng đến nhịp sinh học như ánh sáng mặt trời, thuốc lá, cà phê, dược phẩm…. Những tình huống sau đây cho thấy đồng hồ sinh học có ảnh hưởng rõ lên sức khỏe con người: (1) Hiện tượng jet-lag, thay đổi múi giờ khi đi máy bay, sẽ làm rối loạn giấc ngủ, gia tăng tỉ lệ mắc bệnh khác nhau; (2) Những người có giờ giấc công việc không ổn định, làm việc “ca ba”, làm ngoài giờ như: nhân viên y tế, lái xe, phi công, cong nhân đứng máy, nhân viên cảnh sát, lính cứu hỏa… thường có nguy cơ rối loạn nhịp sinh học cao cho nên họ phải nhận thêm phụ cấp độc hại, (3) Trong y khoa, ăn vào buổi tối có nguy cơ bệnh nội tiết và chuyển hoá tăng và nhịp sinh học cũng có ảnh hưởng đến chuyển hóa và tác dụng các loại dược phẩm: có thuốc phải uống buổi sáng, bụng đói có thuốc phải uống sau ăn…

chúng tôi Trần Bá Thoại Ủy viên BCH Hội NỘI TIẾT VIỆT NAM

Công Bố Giải Nobel Y Học 2012

Giải Nobel y học năm 2012 đã thuộc về nghiên cứu tái lập trình tế bào trưởng thành của hai nhà khoa học là John Gurdon và Yamanaka.

Hai nhà khoa học này đã chứng minh số phận của một tế bào có thể đảo ngược. Họ đã chỉ ra rằng các tế bào có thể bị “khoá” trong một tình huống đặc biệt có thể “ghi nhớ” và trở lại trạng thái linh hoạt mà chúng có ở giai đoạn phôi thai sớm.

Nghiên cứu năm 1962 của Gurdon đã vĩnh viễn thay đổi quan điểm cho rằng các tế bào trưởng thành bị kẹt trong tình trạng của chúng. Trong một loạt thí nghiệm, ông đã cấy ghép một phần nhân tế bào có chứa DNA từ một tế bào đường ruột của một con ếch trưởng thành vào một tế bào trứng ếch (nhân tế bào trứng này đã được loại bỏ). Các tế bào đã phát triển thành một con nòng nọc bình thường, chứng minh rằng DNA có chứa tất cả các thông tin cần thiết để tạo nên một phôi.

Nhà khoa học Shinya Yamanaka

Tại thời điểm Yamanaka phát hiện ra kỹ thuật trên thì cuộc tranh luận về đạo đức đang diễn ra xung quanh việc sử dụng các tế bào phôi gốc. Có vẻ như các tế bào của Yamanaka đang làm vấn đề trở nên đơn giản. Ông Jonathan Moreno, nhà sinh lý học thuộc trường đại học Pennsylvania, Philadelphia cho biết. Nhưng tái lập trình các tế bào sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề về đạo đức hơn người ta nghĩ ban đầu rất nhiều.

Các nhà nghiên cứu đã sử dụng kỹ thuật giống như kỹ thuật của Yamanaka để tạo ra các quả trứng và các tinh trùng của chuột trong phòng thí nghiệm. Điều này có thể dẫn đến sự thay đổi trong phương thức sinh sản của con người.

“Tái lập trình tế bào của con người đã không được sử dụng trên lâm sàng, nhưng các nhà nghiên cứu hy vọng phương pháp này một ngày nào đó sẽ được sử dụng để thay thế các tế bào và mô cho các bệnh nhân. Các tế bào này cũng cho thấy triển vọng nghiên cứu quá trình phát triển của bệnh và dùng để thử nghiệm các loại thuốc”, Larry Goldstein, một nhà khoa học và tế bào gốc thần kinh học tại Đại học California, San Diego nói.

Cập nhật thông tin chi tiết về Nobel Y Học 2022 Và Những Cơ Bản Về Giải Thưởng Nobel trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!