Xu Hướng 5/2023 # Quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam Và Những Bài Học Lịch Sử # Top 5 View | Ictu-hanoi.edu.vn

Xu Hướng 5/2023 # Quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam Và Những Bài Học Lịch Sử # Top 5 View

Bạn đang xem bài viết Quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam Và Những Bài Học Lịch Sử được cập nhật mới nhất trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Chào mừng kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (1961-2021)

Tại Hội thảo khoa học Quân giải phóng miền Nam Việt Nam – Vai trò, ý nghĩa và bài học lịch sử do Bộ Quốc phòng phối hợp với Tỉnh ủy Đồng Nai tổ chức sáng 8-1, có 9 bài tham luận tiêu biểu trong tổng số gần 90 bài tham luận khoa học đã được các đại biểu trình bày.

Nhân dân Sài Gòn đổ ra đường chào đón Quân giải phóng. Ảnh: TL/TTXVN

Các bài tham luận đã khẳng định chủ trương thành lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (QGPMNVN) là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng. Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân tố quyết định tạo nên sức mạnh chiến đấu, làm nên chiến thắng của QGPMNVN; ý nghĩa,  vai trò của QGPMNVN đối với sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Đồng thời, rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của QGPMNVN, vận dụng vào sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

* Vai trò to lớn đối với cách mạng Việt Nam

Thiếu tướng, TS Nguyễn Hoàng Nhiên, Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Phó trưởng ban chỉ đạo hội thảo cho biết, dưới sự lãnh đạo của Đảng, QGPMNVN đã vượt qua muôn vàn gian khó, chấp nhận hy sinh, anh dũng, sáng tạo, chiến đấu quên mình, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giành thắng lợi từng bước để đi đến thắng lợi cuối cùng bằng Cuộc tổng tiến công nổi dậy mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Chặng đường vinh quang đó đã ghi đậm những dấu ấn chiến công, ngời sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng, khẳng định chân lý: Không có gì quý hơn độc lập tự do.

Báo cáo đề dẫn tại hội thảo, thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Phó trưởng ban chỉ đạo hội thảo đã nêu, với bản chất, hiếu chiến, đế quốc Mỹ đã trắng trợn vi phạm Hiệp định Genevè, nhanh chóng nhảy vào miền Nam Việt Nam, dựng lên chính quyền bù nhìn tay sai Ngô Đình Diệm, áp đặt chính sách thực dân kiểu mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9-1960) khẳng định “xây dựng và củng cố lực lượng vũ trang nhân dân là một trong những điều kiện quan trọng của cách mạng nước ta để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược”. Quán triệt chủ trương của đại hội, tháng 1-1961, Tổng quân ủy ra chỉ thị thành lập QGPMNVN, trực tiếp chiến đấu trên chiến trường miền Nam. Ngày 15-2-1961, tại Chiến khu Đ, QGPMNVN được chính thức tuyên bố thành lập.

Trung tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Trưởng ban Chỉ đạo Hội thảo khoa học cho hay: “Hội thảo là dịp để đánh giá, nhìn nhận lại quá trình xây dựng, chiến đấu, công lao, đóng góp của GPMNVN đối với sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; khẳng định sự sáng tạo, linh hoạt của Đảng trong tổ chức và sử dụng lực lượng vũ trang phục vụ nhiệm vụ chiến lược. Qua đó, góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, hun đúc tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý chí độc lập, tự chủ, tinh thần quật khởi và khát vọng yêu chuộng hòa bình cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Đồng thời, đúc rút những bài học kinh nghiệm lịch sử để vận dụng vào sự nghiệp xây dựng  và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới”.

Khẳng định chủ trương thành lập QGPMNVN là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng, là nét đặc sắc của nghệ thuật sử dụng lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ cách mạng, trong bài tham luận QGPMNVN – sự sáng tạo, linh hoạt về tổ chức biên chế của Quân đội nhân dân Việt Nam, Trung tướng Vũ Văn Sỹ, Cục trưởng Cục Quân lực Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam đã đi sâu phân tích và khẳng định sự sáng tạo, linh hoạt về tổ chức biên chế; đánh dấu bước phát triển mới về tổ chức lực lượng của Quân đội nhân dân Việt Nam, một thành công lớn của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Theo trung tướng Vũ Văn Sỹ, QGPMNVN là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam, chịu sự chỉ đạo trực tiếp, xuyên suốt của Đảng Lao động Việt Nam, là nòng cốt của các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ được xây dựng và phát triển trên cơ sở các đội vũ trang tự vệ, vũ trang tuyên truyền của các địa phương miền Nam và lực lượng cán bộ, chiến sĩ, nhân viên kỹ thuật quân sự ở miền Bắc bổ sung, tăng cường.

Ngay sau khi ra đời, Quân giải phóng đã xây dựng, phát triển lực lượng, tập trung xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Trong đó, chú trọng phát triển bộ đội chủ lực cả về tổ chức biên chế và vũ khí trang bị. Tùy vào tình hình chiến sự thực tế, biên chế của Quân giải phóng cũng thay đổi để đáp ứng nhiệm vụ được giao.

Thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh là một minh chứng cho sự lớn mạnh của Quân giải phóng về tổ chức lực lượng; trình độ tổ chức, chỉ huy, hiệp đồng tác chiến với các quân chủng, binh chủng, kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng, thực hiện trận quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh, mở ra một thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam.

Đồng tình với quan điểm này, trong tham luận Nghệ thuật tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng của QGPMNVN trong chống Mỹ, cứu nước, đại tá, PGS-TS Hoàng Xuân Nhiên, Khoa Chiến lược Học viện Quốc phòng cho rằng, trong chiến dịch quyết chiến chiến lược mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh, ta đã chủ động thực hiện hiệp đồng giữa đánh địch trên tuyến phòng thủ từ xa và đột phá tuyến phòng ngự cơ bản ở ven đô của địch với đánh địch bằng binh đoàn thọc sâu vào trung tâm thành phố; giữa cắt đường bộ với ngăn đường sông, khống chế đường không; giữa tiêu diệt, đánh tan bộ binh thiết giáp với chế áp trận địa pháo binh và bắn phá, ném bom làm tê liệt sân bay địch. Điểm rất mới là ta đã dùng máy bay lấy được của địch để ném bom sân bay Tân Sơn Nhất, tạo nên sự phối hợp chiến dịch giữa trên không và mặt đất càng thúc đẩy tốc độ tiến công vào thời điểm rất quan trọng của địch. Nhất là, với các quân đoàn binh chủng hợp thành có sức đột kích mạnh, khả năng cơ động cao, phối hợp chặt chẽ với chiến tranh nhân dân ở các địa phương, chúng ta đã thực hành tác chiến hiệp đồng binh chủng với quy mô rất lớn, lần lượt đập tan những hệ thống phòng thủ kiên cố, loại khỏi chiến đấu từng quân đoàn địch, đánh chiếm các căn cứ quân sự lớn, giải phóng các thành phố, thị xã, đánh vào tận sào huyệt của địch, đánh đổ ngụy quyền, giải phóng miền Nam…

* Những bài học lịch sử còn nguyên giá trị

Được tuyên bố thành lập vào ngày 15-2-1961 đến khi kết thúc vai trò lịch sử vào ngày 7-7-1976, chặng đường xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của QGPMNVN đã làm nên những thắng lợi huy hoàng, để lại những bài học kinh nghiệm quý báu về lãnh đạo chỉ đạo của Đảng trong xây dựng và phát huy vai trò của lực lượng vũ trang trong thực hiện nhiệm vụ cách mạng; bài học về tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang phù hợp với hoàn cảnh và nhiệm vụ; phát huy sức mạnh chính trị – tinh thần, xây dựng ý chí quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sĩ; về tư tưởng tiến công, sáng tạo trong thực hiện vụ, phát huy sức mạnh tổng hợp…

Báo cáo đề dẫn của thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam cho rằng,  hội thảo là dịp để ôn lại lịch sử hào hùng; bản chất, truyền thống tốt đẹp, những chiến công oanh liệt của QGPMNVN, của Quân đội nhân dân Việt Nam và nhân dân ta. Qua đó, khơi dậy niềm tự hào, tự tôn dân tộc, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; phát huy ý chí tự lực, tự cường vượt qua mọi khó khăn thử thách xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.  Hội thảo đã góp phần làm sáng tỏ, sâu sắc hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra từ quá trình xây dựng, chiến đấu, phát huy vai trò của QGPMNVN trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đó là nền tảng khoa học vững chắc trong cuộc chiến chống âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc lịch sử của các thế lực thù địch; đồng thời, góp phần giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng, bồi đắp tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, nhất là các thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay và mai sau.

Trong tham luận Xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu cho QGPMNVN – bài học kinh nghiệm trong xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu 7 hiện nay, thiếu tướng Hoàng Đình Chung, Chủ nhiệm Chính trị Quân khu 7 cho biết, vận dụng những kinh nghiệm xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu của QGPMNVN, việc xây dựng quyết tâm chiến đấu của lực lượng vũ trang Quân khu 7 ngày nay tập trung vào một số nội dung sau: giáo dục bộ đội nhận rõ đối tượng, đối tác của cách mạng, đối tượng tác chiến của quân đội trong tình hình mới, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Tập trung củng cố, tăng cường niềm tin, lý tưởng chiến đấu, làm cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân vững tin vào thắng lợi của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong tương lai, phát huy truyền thống anh hùng của dân tộc, của quân đội, truyền thống trung thành vô hạn, chủ động sáng tạo, tự lực tự cường, đoàn kết quyết thắng của lực lượng vũ trang Quân khu 7. 

Xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu vững mạnh toàn diện, mẫu mực tiêu biểu, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở. Xây dựng Đảng bộ Quân khu trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang Quân khu và sự nghiệp quốc phòng. Chủ động, tích cực đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trên internet, mạng xã hội, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội. Chủ động chia sẻ, lan tỏa những tin, bài, ảnh có nội dung tích cực, gương người tốt việc tốt… nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không tin theo, không truy cập và tán phát, chia sẻ những thông tin xấu độc, góp phần đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động.

Bên cạnh đó, thường xuyên quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, kết hợp công tác tư tưởng với công tác tổ chức và công tác chính sách, dân vận, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, nếp sống văn minh, “sáng, xanh, sạch, đẹp”; ngăn chặn, đẩy lùi tác động của mặt trái kinh tế thị trường, tệ nạn, tiêu cực trong xã hội đối với cán bộ, chiến sĩ.

Đại tá Lương Đình Lành, Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân đoàn 4 chia sẻ, Quân đoàn đã và đang tập trung xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, mẫu mực, tiêu biểu; xây dựng Đảng bộ Quân đoàn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Nhân kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập QGPMNVN (1961-2021), Quân đoàn 4 tiếp tục phát huy truyền thống “Trung thành, đoàn kết, anh dũng, sáng tạo, tự lực, quyết thắng”, tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao…

Hạnh Dung

PGS-TS Nguyễn Đức Nhuệ, Phó viện trưởng phụ trách Viện Sử học (Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam): Giải phóng quân anh dũng chiến thắng

 

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc, QGPMNVN là đội quân chủ lực thực hiện nhiệm vụ “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, góp phần quan trọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, viết nên trang sử vàng trong quá trình xây dựng và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam, để lại dấu ấn đậm nét trong tiến trình lịch sử dân tộc.

Trải qua gần 15 năm (1961-1975), QGPMNVN, bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam đã làm tròn nhiệm vụ chiến đấu ở chiến trường miền Nam, hoàn thành sứ mệnh lịch sử của dân tộc giao phó, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, QGPMNVN thật xứng đáng với 7 chữ vàng “Giải phóng quân anh dũng chiến thắng”, tung bay trên quân kỳ do Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trao tặng ngay trong ngày thành lập.

Đồng chí Phạm Xuân Hà, Ủy viên Ban TVTU, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai: Khẳng định vai trò quan trọng của Chiến khu Đ

 

Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Chiến khu Đ gắn liền với lịch sử thành lập và hoạt động của những đơn vị vũ trang mạnh, những tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn và hàng loạt trận đánh, chiến dịch, mà kết quả của nó đã góp phần tạo nên những bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển của cuộc chiến tranh. Từ đây, đã ra đời những đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên của miền Đông và của Xứ ủy, rồi tập trung thành Tiểu đoàn 800, Tiểu đoàn 500, Trung đoàn Đồng Nai. Đây cũng là nơi thành lập và đứng chân tác chiến của lực lượng quân chủ lực Miền như Trung đoàn 762, Sư đoàn 9, Sư đoàn 5, Sư đoàn 7, và trong cuộc tổng tiến công nổi dậy mùa xuân năm 1975 là nơi tập kết của lực lượng Quân đoàn 1, Quân đoàn 4 trước khi tiến về giải phóng Sài Gòn.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Chiến khu Đ tồn tại như một biểu tượng của cuộc kháng chiến, tiêu biểu cho ý chí, sức mạnh tinh thần của toàn dân, là nguồn hy vọng, là niềm tin của toàn thể cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trên địa bàn miền Đông Nam bộ. Truyền thống anh hùng của lực lượng vũ trang QGPMNVN đã góp phần làm nên một Chiến khu Đ còn, Sài Gòn mất. Đây không chỉ là một đánh giá về mặt vị trí chiến lược của căn cứ đối với kẻ thù, mà còn mang ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại, phát triển của các lực lượng vũ trang cách mạng trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Đại tá Nguyễn Viết Tá, nguyên Tổng biên tập Báo Quân giải phóng, nguyên Trưởng phòng Khoa học quân sự Quân khu 7, thư ký của thượng tướng Trần Văn Trà: Dấu ấn thượng tướng Trần Văn Trà

 

Thượng tướng Trần Văn Trà là người chỉ huy tài ba, mưu lược, để lại dấu ấn sâu đậm với tên gọi thân thương “Vị tướng của Thành đồng Tổ quốc”. Trên cương vị Tư lệnh QGPMNVN, thượng tướng Trần Văn Trà đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét “là một cán bộ quân sự quan tâm lãnh đạo toàn diện các mặt công tác quân sự, chính trị, hậu cần, kinh tế, ngọai giao. Dù ở cương vị nào đồng chí cũng hòa mình với quần chúng, gương mẫu, thương yêu, đoàn kết, tôn trọng cán bộ, chiến sĩ, được đồng đội và nhân dân quý mến.

Nhà văn Trầm Hương, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, chuyên viên cao cấp Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ: Vẻ vang nữ tướng Nguyễn Thị Định

 

Từ chỉ huy Đội quân tóc dài trong phong trào Đồng Khởi, bà Nguyễn Thị Định đã trở thành Phó tư lệnh QGPMNVN, là nữ tướng duy nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong nhân dân và đồng đội, là tấm gương sáng của phụ nữ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Chưa có người phụ nữ nào được vinh dự nhận lấy sự tín nhiệm của Đảng, Nhà nước và nhân dân như bà Nguyễn Thị Định. Năm 1965. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Phó tổng tư lệnh quân giải phóng là cô Nguyễn Thị Định. Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật là vẻ vang cho miền Nam, cho cả dân tộc ta”.            

                An Yên (ghi)

Các Địa Bàn Quân Sự Của Quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam

Trong chiến tranh Việt Nam, mặt trận (địa bàn quân sự) là hình thức bố trí binh lực đồng thời là không gian tác chiến của các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam trong đó có Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam[1] Về danh nghĩa, các lực lượng quân sự chiến đấu chống chính phủ Việt Nam Cộng hòa, quân đội Mỹ và đồng minh, ở phía Nam vĩ tuyến 17, được đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, về thực tế chiến trường, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam trực tiếp chỉ đạo các mặt trận từ Khánh Hòa đến vĩ tuyến 17, chiến đấu dưới danh nghĩa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Các mặt trận từ Ninh Thuận đến Cà Mau do Bộ Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chỉ đạo tác chiến.

Trong kế hoạch chỉ đạo tác chiến và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hình thành từ năm 1960, các khu vực tác chiến quân sự được đặt theo các tên gọi quy ước A: miền Bắc, B: miền Nam, C: Lào và Đ, sau đổi thành K: Cam pu chia. Năm 1961, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã thông qua kế hoạch này.

Theo đó, trên khắp bán đảo Đông Dương được phân thành nhiều mặt trận chính, có sự tham gia tác chiến của lực lượng quân sự chủ lực, như tại miền Nam Việt Nam được phân thành B1 (từ Khánh Hòa đến vĩ tuyến 17) do Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam trực tiếp chỉ đạo tác chiến và B2 (từ Ninh Thuận đến Cà Mau) do Ban quân sự lực lượng vũ trang ở miền Nam chỉ đạo tác chiến. Ngoài ra, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tham mưu còn có thể thành lập các mặt trận lâm thời trên các hướng quan trọng trong mỗi chiến cục hoặc chiến dịch. Trừ B1 và B2, các mặt trận đều do Đảng ủy mặt trận và Bộ Tư lệnh mặt trận lãnh đạo. Ngoài ra trên toàn bộ chiến trường miền Nam còn tổ chức thành các quân khu, do Khu ủy và Bộ Tư lệnh quân khu lãnh đạo, tác chiến chủ yếu bởi lực lượng quân sự địa phương. Về nguyên tắc, các mặt trận (B) do Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tham mưu QĐNDVN trực tiếp chỉ đạo; các khu do Quân uỷ miền và Bộ Tư lệnh Miền ( Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) trực tiếp chỉ đạo nhưng vẫn có sự phối hợp với các B do Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tham mưu QĐNDVN giao nhiệm vụ. Tuỳ tình hình chiến sự, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tham mưu QĐNDVN có thể cử các đại diện của mình đến các B hoặc các khu để phối hợp tác chiến.

Trong suốt chiến tranh Việt Nam, tùy theo giai đoạn và hình thái chiến tranh, các mặt trận và các quân khu được điều chỉnh và thay đổi cho phù hợp:

Ban đầu (1961), trên chiến trường miền Nam chỉ gồm 2 mặt trận B1 với 1 quân khu và B2 với 5 quân khu. Đến giữa năm 1966 đã phân thành 5 mặt trận (B) với 7 quân khu.

Bên cạnh đó, một số mặt trận lâm thời trên các hướng quan trọng trong mỗi chiến cục hoặc chiến dịch như Mặt trận B.702 (Đường 9-Nam Lào năm 1971), Mặt trận C.702 (Cánh đồng chum – Xiêng Khoảng năm 1972).

Hình thái tổ chức địa bàn quân sự theo mặt trận được duy trì cho đến hết chiến tranh. Tuy nhiên, kể từ sau Hiệp định Paris 1973, quân Mỹ và đồng minh phải rút về nước, các lãnh đạo quân sự Cộng sản đã tái tổ chức lại các lực lượng tác chiến của mình thành những đơn vị chủ lực cơ động mạnh, chuẩn bị cho cuộc chiến sau cùng, chấm dứt chiến tranh và thống nhất đất nước.

Các chiến trường trọng yếu

Chiến trường B1 Nam Trung Bộ được thành lập đầu năm 1961, gồm các tỉnh từ Khánh Hòa đến vĩ tuyến 17, do Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam trực tiếp chỉ đạo. Địa bàn chiến trường B1 tương ứng với địa bàn Quân khu I và Quân khu II của Việt Nam Cộng hòa.

Tháng 5 năm 1964, 3 tỉnh Gia Lai, Kon Tum và Đắc Lắc được tách ra để thành lập B3 (Tây Nguyên). Tháng 4 năm 1966, 2 tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên được tách ra để thành lập B4 (Trị Thiên). Từ đó cho đến hết chiến tranh, chiến trường B1 gồm các tỉnh ven biển miền Trung từ Đà Nẵng vào đến Khánh Hòa.

Chiến trường B2 Nam Bộ được thành lập đầu năm 1961, gồm các tỉnh từ Ninh Thuận đến Cà Mau, do Bộ Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chỉ đạo tác chiến. Địa bàn chiến trường B2 tương ứng với địa bàn Quân khu III và Quân khu IV của Việt Nam Cộng hòa.

Là địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ (Tây Ninh, Bình Long, Phước Long, Long Khánh, Biên Hoà, Bình Dương). Phía Bắc tiếp giáp B3, phía Tây giáp Cam pu chia, phía Đông tiếp giáp khu 6, phía Đông Nam tiếp giáp T-4 và khu 8. Trên địa bàn này có các khu căn cứ D và R là nơi đóng trụ sở Quân uỷ Miền và Bộ Tư lệnh Miền ( Quân giải phóng miền Nam Việt Nam). Đây là phần phía Bắc của địa bàn Vùng chiến thuật III – Quân đoàn III theo cách phân chia địa bàn tác chiến của QLVNCH

Chiến trường B3 Tây Nguyên được thành lập giữa năm 1964, gồm các tỉnh Tây Nguyên (trừ Lâm Đồng), tách ra từ B1, do Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam trực tiếp chỉ đạo. Tư lệnh đầu tiên: Đại tá Nguyễn Chánh, Chính ủy Đại tá Đoàn Khuê. Địa bàn chiến trường B3 tương ứng với địa bàn Cao nguyên của Quân khu II Việt Nam Cộng hòa.

Là mặt trận Tây Nguyên, bao gồm hầu hết Cao nguyên Trung phần (trừ các tỉnh Tuyên Đức (Lâm Đồng) và Phú Bổn). Phía Tây là đường Tây Trường Sơn ( đường Hồ Chí Minh) trên đất Lào. Phía Bắc giáp với B5. Phía Nam giáp với B2, phía Đông giáp với Khu 5 và Khu 6. Đây là phần phía Tây của địa bàn Vùng chiến thuật II – Quân đoàn II theo cách phân chia địa bàn tác chiến của QLVNCH.

Chiến trường B4 Trị – Thiên được thành lập tháng 4 năm 1966, gồm 2 tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên, tách ra từ B1, do Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam trực tiếp chỉ đạo. Tư lệnh kiêm Chính ủy đầu tiên: Thiếu tướng Lê Chưởng. Địa bàn chiến trường B4 tương ứng với địa bàn Bắc Quân khu I Việt Nam Cộng hòa.

Chiến trường B5 Bắc Quảng Trị được thành lập tháng 6 năm 1966, địa bàn ở khu vực Đường 9 và Bắc Quảng Trị, tách ra từ B4, do Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam trực tiếp chỉ đạo. Tư lệnh đầu tiên: Đại tá Vũ Nam Long, Chính ủy Nguyễn Xuân Hoàng. Địa bàn chiến trường B5 tương ứng với địa bàn cực Bắc Quân khu I Việt Nam Cộng hòa.

Là mặt trận Trị Thiên Huế, phía Bắc tiếp giáp khu vực Vĩnh Linh qua sông Bến Hải. Phía Tây có đường chiến lược 12 (nhánh phía Bắc hệ thống đường Hồ Chí Minh). Phía Nam giáp với địa bàn phía Bắc Khu 5 (Quảng Nam-Đà Nẵng). Đây cũng là địa bàn phía Bắc của Vùng chiến thuật I – Quân đoàn I của QLVNCH.

Các quân khu

Còn gọi là Quân khu miền Đông, mật danh T1, thành lập năm 1961 trên cơ sở Phân liên khu miền Đông thời Kháng chiến chống Pháp, địa bàn gồm các tỉnh miền Đông Nam Bộ, do Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo tác chiến. Tư lệnh đầu tiên: Nguyễn Hữu Xuyến (Tám Kiến Quốc).

Cuối năm 1961, tách Phước Long, hợp với 2 tỉnh Quảng Đức, Lâm Đồng của Quân khu 6 để thành lập Quân khu 10.

Từ tháng 10 năm 1967, giải thể Quân khu 1 để thành lập Khu trọng điểm gồm 7 phân khu (đánh số từ 1 đến 7) và 2 tỉnh trực thuộc Bộ Tư lệnh Miền.

Mật danh T2, thành lập năm 1961 trên cơ sở Khu 8 thời Kháng chiến chống Pháp, địa bàn gồm các tỉnh miền trung Nam bộ: Tân An, Mỹ Tho, Gò Công, Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đéc và Bến Tre, do Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo tác chiến. Tư lệnh đầu tiên: Lê Quốc Sản (Tám Phương), Chính ủy Nguyễn Minh Đường

Đến năm 1974 thì đổi tên hiệu thành Quân khu 8, tồn tại đến cuối năm 1975 thì giải thể.

Mật danh T3, thành lập năm 1961 trên cơ sở Phân liên khu miền Tây thời Kháng chiến chống Pháp, địa bàn gồm các tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng (thêm một phần tỉnh Bạc Liêu), Rạch Giá, Cà Mau (gồm một phần tỉnh Bạc Liêu) và Hà Tiên, do Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo tác chiến. Tư lệnh đầu tiên: Nguyễn Thành Thơ (Mười Khẩn), Chính ủy Nguyễn Văn Bé (Tám Tùng).

Đến năm 1974 thì đổi tên hiệu thành Quân khu 9.

Còn gọi là Quân khu Sài Gòn – Gia Định, mật danh T4, thành lập năm 1961 trên cơ sở Đặc khu Sài Gòn – Chợ Lớn thời Kháng chiến chống Pháp, do Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo tác chiến. Tư lệnh đầu tiên: Trần Hải Phụng (Hai Phụng).

Tháng 10 năm 1967, giải thể cùng lúc với Quân khu 1, để thành lập Khu trọng điểm, gồm 7 phân khu, trong đó địa bàn Phân khu 6 là các quân nội thành Sài Gòn. Tái lập cuối năm 1972 với tên gọi cũ.

Năm 1974 đổi tên thành Thành đội Sài Gòn.

Mật danh T5, thành lập năm 1961 trên cơ sở Liên khu 5 thời Kháng chiến chống Pháp, địa bàn các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên gồm Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Kon Tum, Gia Lai, là mặt trận B1 trên danh nghĩa là thuộc lực lượng Quân giải phóng miền nam Việt Nam, nhưng trên thực tế là do Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam trực tiếp chỉ đạo tác chiến. Tư lệnh kiêm Chính ủy đầu tiên: Nguyễn Đôn.

Cuối năm 1963, bổ sung thêm địa bàn 2 tỉnh Đắc Lắc và Khánh Hòa từ Quân khu 6.

Tháng 5 năm 1964, tách các tỉnh Tây Nguyên để thành lập B3.

Tháng 4 năm 1966, tách Quảng Trị và Thừa Thiên để thành lập B4 (Quân khu Trị Thiên).

Mật danh T6, thành lập năm 1961 trên cơ sở Liên khu 5 thời Kháng chiến chống Pháp, địa bàn các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên gồm Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắc Lắc, Quảng Đức, Tuyên Đức, Lâm Đồng, do Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo tác chiến. Quyền Tư lệnh đầu tiên: Y Blok Êban.

Cuối năm 1961, tách 2 tỉnh Quảng Đức, Lâm Đồng, hợp với tỉnh Phước Long của Quân khu 1 để thành lập Quân khu 10.

Tháng 10 năm 1963, Quân khu 10 giải thể, nhập lại các tỉnh cũ và chuyển các tỉnh Khánh Hòa, Đắc Lắc cho Quân khu 4.

Năm 1966, lại tách các tỉnh Quảng Đức và Phước Long, hợp với tỉnh Bình Long của Quân khu 7 để tái lập Quân khu 10.

Năm 1971, Khu 10 giải thể, tiếp nhận các tỉnh của Khu 10.

Mật danh T7, thành lập tháng 3 năm 1968 trên cơ sở các Phân khu 4, Phân khu 7 và tỉnh Bà Rịa, do Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo tác chiến. Tháng 4 năm 1971, giải thể. Năm 1972, các phân khu bị giải thể để tái lập Quân khu Sài Gòn – Gia Định và Quân khu miền Đông. Từ năm 1974, đổi tên trở lại thành Quân khu 7.

Mật danh T10, thành lập cuối năm 1961, địa bàn ban đầu gồm 3 tỉnh Phước Long, Lâm Đồng, Quảng Đức, do Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo tác chiến. Tháng 10 năm 1963 giải thể. Đến năm 1966, tái lập với địa bàn 3 tỉnh Quảng Đức, Phước Long, Bình Long. Tháng 4 năm 1971, giải thể.

Khu trọng điểm

Thành lập tháng 10 năm 1967, với địa bàn là các tỉnh cũ của 2 quân khu miền Đông và Sài Gòn – Gia Định vừa giải thể, tổ chức thành 7 phân khu (đánh số từ 1 đến 7) và 2 tỉnh độc lập Bà Rịa, Tây Ninh trực thuộc Bộ Tư lệnh Miền. Tháng 3 năm 1968, tách các Phân khu 4, Phân khu 7 và tỉnh Bà Rịa để thành lập Quân khu 7. Tháng 4 năm 1971, Quân khu 7 giải thể, tiếp nhận tỉnh Bà Rịa gồm Phân khu 4 sáp nhập và Phân khu 5 (sáp nhập Phân khu 7). Năm 1972 giải thể để tái lập Quân khu miền Đông và Quân khu Sài Gòn – Gia Định.

Kỷ Niệm 50 Năm Ngày Thành Lập Quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (15

Sau thất bại nặng nề trong âm mưu phá hoại Hiệp định Genève, chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam thành pháo đài chống cộng bất khả xâm phạm, đánh dấu bằng sự bùng nổ Phong trào Đồng khởi của nhân dân trên toàn miền Nam và sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) vào 20-12-1960, Hoa Kỳ vẫn không từ bỏ tham vọng của mình và tiếp tục tìm kiếm chiến lược quân sự mới để đối phó.

Luật sư Nguyễn Hữu Thọ thăm hỏi Quân Giải phóng miền Nam. (Ảnh tư liệu)

Chính thức nhậm chức tại Nhà Trắng từ 20-1-1961, Tổng thống Hoa Kỳ Kennedy đã thay thế chiến lược Trả đũa ồ ạt của Eisenhower bằng chiến lược Phản ứng linh hoạt. Chiến lược quân sự toàn cầu mới này gồm 3 loại hình là Chiến tranh tổng lực, Chiến tranh cục bộ và Chiến tranh đặc biệt. Ngày 28-1-1961, kế hoạch ứng dụng chiến lược Chiến tranh đặc biệt tại miền Nam Việt Nam đã được Chính phủ Hoa Kỳ thông qua.

Mục đích của chiến lược Chiến tranh đặc biệt là chống lại chiến tranh du kích, chiến tranh giải phóng ở miền Nam bằng sự phối hợp toàn diện các hoạt động quân sự, chính trị, kinh tế và tâm lý thông qua lực lượng chính quyền, quân đội của Việt Nam Cộng hòa (VNCH) kết hợp với sự huấn luyện, cố vấn, chỉ huy và trang bị kỹ thuật, vũ khí, phương tiện chiến tranh do Hoa Kỳ viện trợ.

Biện pháp chủ yếu của chiến lược Chiến tranh đặc biệt là mở các cuộc hành quân càn quét, đánh phá nhằm gom dân vào 16.000 “ấp chiến lược” trên tổng số 17.000 thôn ấp ở miền Nam để “tát nước bắt cá”, coi đó là “quốc sách”, là “xương sống” của chiến lược; đồng thời dùng quân chủ lực của VNCH dưới sự yểm trợ của các đơn vị máy bay, xe tăng Hoa Kỳ sử dụng các chiến thuật tân kỳ như “trực thăng vận”, “thiết xa vận” tiến hành các cuộc hành quân để tiêu hao, tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng, đẩy cộng sản ra khỏi lãnh thổ Nam Việt Nam.

Nhằm kịp thời đối phó với chiến lược quân sự mới của Hoa Kỳ, đồng thời tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng miền Nam tiến lên, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (BCHTW Đảng) ngày 23-1-1961 đã quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam (gọi tắt là Cục R) thay thế Xứ ủy Nam Bộ, là một bộ phận của BCHTW Đảng, để chỉ đạo trực tiếp ở miền Nam.

Đặc biệt, Chỉ thị ngày 31-1-1961 và Nghị quyết đầu tháng 2-1961 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ quân sự trong 5 năm 1961-1965 và phương hướng nhiệm vụ của cách mạng miền Nam (sau đó được Nghị quyết của Hội nghị Bộ Chính trị tháng 12-1962 bổ sung thêm) đã chủ trương chuyển từ khởi nghĩa từng phần phát triển lên thành chiến tranh cách mạng trên quy mô toàn miền, đồng thời đề ra những biện pháp chiến lược hết sức quan trọng, bao gồm:

– Duy trì và đẩy mạnh đấu tranh chính trị cả ở nông thôn và thành thị, đẩy mạnh đấu tranh quân sự lên ngang tầm với đấu tranh chính trị để kịp thời giáng trả các cuộc phản kích của địch, giữ vững thế trận ở vùng nông thôn.

– Đẩy mạnh việc xây dựng lực lượng vũ trang cả về số lượng và chất lượng, cả lực lượng tại chỗ và các khối cơ động; đồng thời củng cố một số căn cứ địa, xây dựng hậu phương tại chỗ tạo địa bàn đứng chân vững chắc cho các khối chủ lực.

– Phát triển chiến tranh du kích, đánh phá những nơi xung yếu như kho tàng, sân bay, bến cảng, các trục giao thông huyết mạch; tăng cường hoạt động chiến đấu của lực lượng chủ lực, nâng cao trình độ tác chiến tập trung.

– Vận dụng phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị phù hợp đặc điểm của ba vùng chiến lược: vùng rừng núi lấy đấu tranh quân sự là chính, vùng nông thôn đồng bằng coi trọng cả đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ngang nhau, vùng thành thị thì đẩy mạnh đấu tranh chính trị; kết hợp 3 mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận; tập trung mũi nhọn vào nhiệm vụ chống càn quét để làm phá sản chương trình lập “ấp chiến lược” của địch.

Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và quyết định của Quân ủy Trung ương, Trung ương Cục miền Nam đã tổ chức Hội nghị quân sự tại Chiến khu Đ vào ngày 15-2-1961 để thống nhất các lực lượng vũ trang ở miền Nam. Kết quả là lực lượng Giải phóng quân miền Nam Việt Nam, gọi tắt là Quân Giải phóng miền Nam (QGPMN) được thành lập trên cơ sở thống nhất các lực lượng vũ trang ở miền Nam, bao gồm lực lượng ở lại không đi tập kết, lực lượng mới tham gia tại chỗ và lực lượng đi tập kết đã quay lại miền Nam hoạt động.

Đại đội súng cối 82 ly của du kích-Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam. (Ảnh tư liệu)

Về mặt quân sự, QGPMN là một bộ phận của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN), chịu sự lãnh đạo trực tiếp từ trên xuống của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, Quân ủy và Bộ Tư lệnh QGPMN, Quân khu ủy và các Bộ Tư lệnh QGPMN ở các quân khu, Đảng ủy quân sự và Bộ Chỉ huy quân sự các tỉnh, thành phố tại miền Nam. Vì thế, lực lượng bộ đội từ miền Bắc tăng cường vào Nam chiến đấu, kể từ năm 1963, nghiễm nhiên cũng là bộ đội thuộc biên chế QGPMN, chứ không phân biệt quân đội hai miền Nam-Bắc như quan điểm của Hoa Kỳ và VNCH.

Về mặt chính trị, QGPMN là lực lượng vũ trang của MTDTGPMNVN giai đoạn 1961-1969 và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CPCMLTCHMNVN) giai đoạn 1969-1976; vì vậy, QGPMN chịu sự lãnh đạo tối cao từ trên xuống của Bộ Chính trị, BCHTW của Đảng Lao động Việt Nam, Trung ương Cục miền Nam của Đảng Nhân dân Cách mạng miền Nam (thành lập vào ngày 1-1-1962), MTDTGPMNVN và CPCMLTCHMNVN.

Kể từ khi thành lập, lực lượng QGPMN không ngừng lớn mạnh và trưởng thành về nhiều mặt. Ngay trong năm 1961, Trung ương đã giúp xây dựng được 12 tiểu đoàn cho cả Khu V và Nam Bộ. Ngoài lực lượng và trang bị tại chỗ, sự chi viện của miền Bắc là nguồn bổ sung rất quan trọng cho sức mạnh của QGPMN. Chẳng hạn, năm 1963 có trên 40.000 cán bộ, chiến sĩ và 1.430 tấn vũ khí từ miền Bắc được đưa vào miền Nam; năm 1964 con số đó là 17.427 cán bộ, chiến sĩ và 3.435 tấn vũ khí (Lê Duẩn-Tiểu sử, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 297 và 314). Theo một số liệu thống kê, bộ đội chủ lực của QGPMN vào tháng 12-1974 khoảng 290.000 người, trong đó có chừng 90.000 người miền Nam.

Trong quá trình chiến đấu, QGPMN đã làm nên nhiều trận đánh nổi tiếng, phối hợp mặt trận đấu tranh chính trị giành được những thắng lợi quyết định, góp phần to lớn cùng cả nước đánh bại lần lượt các chiến lược quân sự then chốt của Hoa Kỳ và VNCH: Chiến tranh đặc biệt (1961-1965), Chiến tranh cục bộ (1965-1968), Việt Nam hóa chiến tranh (1969-1973); buộc Hoa Kỳ phải chấp nhận ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương ngày 27-1-1973, rồi tiến lên đánh bại hoàn toàn chế độ VNCH, giải phóng miền Nam vào 30-4-1975 với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Sau kỳ họp thứ nhất của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất (24-6-1976 – 3-7-1976), cùng với sự hoàn thành thống nhất về mặt Nhà nước, lực lượng quân đội cũng đi đến thống nhất dưới tên chung là QĐNDVN. Từ đây, tên gọi QGPMN đã trở thành quá khứ, song vẫn luôn còn đó lịch sử của 15 năm đấu tranh đầy hy sinh, mất mát, gian khổ nhưng anh dũng của lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam (1961-1976).

QGPMN đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của dân tộc giao phó, xứng đáng với 7 chữ vàng “Giải phóng quân anh dũng chiến thắng” được in trên lá quân kỳ do MTDTGPMNVN trao tặng ngay từ ngày thành lập. Hình ảnh hiên ngang, bất khuất, kiên cường của các chiến sĩ QGPMN mãi mãi in sâu vào văn chương, thơ ca, nhạc họa và là tượng đài trong tâm trí của nhân dân Việt Nam, trong sự ngưỡng mộ của nhân loại yêu chuộng hòa bình và công lý.

Lịch Sử Và Ý Nghĩa Của Ngày Giải Phóng Miền Nam (30/4/1975

Trang chủ

Tư liệu văn kiện

Các tư liệu chuyên đề

Lượt xem: 14974

Lịch sử và ý nghĩa của ngày Giải phóng miền Nam (30/4/1975 – 30/4/2020)

Chiến thắng 30/4 là một trong những mốc son chói lọi nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Nhân dịp kỷ niệm 45 năm ngày

1. Lịch sử của ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 30/4

Vào cuối năm 1974 – đầu năm 1975, nhận thấy tình hình so sánh lực lượng ở Miền Nam có sự thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Bộ Chính trị nhấn mạnh “cả năm 1975 là thời cơ” và chỉ rõ “nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong năm 1975”. Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh cần tranh thủ thời cơ đánh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hóa, giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh. Sau chiến thắng của quân ta ở chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế-Đà Nẵng, Bộ Chính trị đã nhận định: “Thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng Miền Nam” và đã đưa ra quyết định: “phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất giải phóng Miền Nam trước mùa mưa”, đồng thời chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định được Bộ Chính trị quyết định mang tên “chiến dịch Hồ Chí Minh”. Trước khi tấn công giải phóng Sài Gòn, quân ta đã tiến công Xuân Lộc và Phan Rang, đây là những căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch để bảo vệ Sài Gòn từ phía đông.

Vào lúc 17 giờ ngày 26/4, quân ta đã nổ súng mở đầu chiến dịch, năm cánh quân của ta đã vượt qua tuyến phòng thủ của địch để tiến vào trung tâm Sài Gòn, đánh chiếm các cơ quan đầu não của chúng. 10 giờ 45 phút ngày 30/4, xe tăng và bộ binh của ta tiến vào Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ Nội các của Sài Gòn, Dương Văn Minh vừa lên chức tổng thống ngày 28/4 đã phải tuyên bố đầu hàng quân ta không điều kiện. Đến 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên Dinh Độc Lập, báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Đại thắng mùa xuân 1975 đã chứng minh trí tuệ và tài thao lược của Đảng ta trong lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh cách mạng, cũng như chứng minh tinh thần quật khởi của người dân Việt Nam trong đấu tranh chống ngoại xâm. Chiến thắng đã chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến ở nước ta, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước, đồng thời mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc, cả nước cùng tiến lên CNXH. Thắng lợi này đã đi vào lịch sử nước ta và của thế giới, như một trang sử chói lọi ở những năm 70 của thế kỷ XX, mang tầm quốc tế, tầm thời đại sâu sắc.

2. Ý nghĩa của Chiến thắng lịch sử 30/4

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã đi vào lịch sử dân tộc như một mốc son chói lọi đưa đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta từ đây tập trung sức lực và trí tuệ hàn gắn vết thương chiến tranh xây dựng cuộc sống mới; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chiến thắng ngày 30/4/1975 là thành quả vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng, chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc. Quân và dân ta đã đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất cho Tổ quốc; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới, góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.

Ngày nay, trong công cuộc đổi mới của đất nước, chúng ta mãi tự hào và biết ơn sự hy sinh to lớn của các anh hùng, các thế hệ cha ông ta đã chiến đấu anh dũng vì độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc. Chúng ta càng tự hào, tin tưởng vào sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam, vào tinh thần quật cường bất khuất và trí thông minh, sáng tạo của dân tộc ta, của quân đội ta. Mỗi người dân Việt Nam nguyện tiếp tục phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần tự lực, tự cường, tinh thần đại đoàn kết toàn dân, quyết tâm vươn lên hoàn thành tốt các chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh theo chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng đề ra./.

                                        Phòng TTCTTG

Tweet

Cập nhật thông tin chi tiết về Quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam Và Những Bài Học Lịch Sử trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!