Bạn đang xem bài viết Skkn Tạo Hứng Thú Học Tập Cho Học Sinh Thông Qua Khai Thác Một Bài Toán Hình Học 7 được cập nhật mới nhất trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Trang 1. MỞ ĐẦU 2 1.1. Lí do chọn đề tài 2 1.2. Mục đích nghiên cứu 2 1.3. Đối tượng nghiên cứu 3 1.4. Phương pháp nghiên cứu 3 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 4 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 4 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 4 2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 5 2.3.1. Hướng dẫn học sinh giải bài toán mở đầu 5 2.3.2. Khai thác và phát triển bài toán mở đầu 6 a) Bài toán “Đầu cá” 6 a.1. Ứng dụng của bài toán “Đầu cá” 7 a.2. Bài toán đảo của Bài toán “Đầu cá” và ứng dụng 9 b) Bài toán “Thân cá” 10 b.1. Ứng dụng của bài toán “Thân cá” 11 b.2. Bài toán đảo của bài toán “Thân cá” và ứng dụng 12 c) Bài toán “Đuôi cá” 13 c.1. Ứng dụng của bài toán “Đuôi cá” 14 d) Bài toán “Con cá” 15 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường 16 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 17 3.1. Kết luận 17 3.2. Kiến nghị 17 TÀI LIỆU THAM KHẢO 19 20 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, khơi dậy và phát triển năng lực tự học nhằm hình thành cho học sinh tư duy tích cực, độc lập sáng tạo, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh, đây là định hướng chung về phương pháp dạy học hiện nay. Để phát triển khả năng tư duy, vận dụng kiến thức đã biết để giải các bài toán khác cho học sinh thì giáo viên cần phải học hỏi, nghiên cứu, tìm tòi, đúc rút kinh nghiệm từ việc giảng dạy của mình và có phương pháp hợp lý để truyền thụ kiến thức và phát huy tính sáng tạo cho học sinh. Thực tiễn dạy học hiện nay cho thấy rất rõ tình trạng học sinh học yếu môn toán, nhất là môn hình học ở trường còn khá phổ biến, học sinh đạt đến độ say mê để trở thành kĩ năng trong giải toán hình học còn hạn chế. Vì vậy, quá trình giảng dạy để đạt được kết quả tốt cần tạo ra hứng thú học tập và rèn kỹ năng cho học sinh có tầm quan trọng đặc biệt. Như chúng ta đã biết, sách giáo khoa Toán THCS rất quan tâm tới yếu tố vui học, gắn bài học với thực tế, nhằm tạo ra sự gần gũi thân thiết , gây hứng thú học tập, từ đó giúp học sinh đạt kết quả học tập cao nhất. Việc tạo được niềm say mê, hứng thú trong học tập bằng cách này hay cách khác chắc chắn sẽ đem lại kết quả học tập tốt hơn nhiều cho mỗi học sinh. Là những giáo viên giảng dạy môn Toán THCS, chúng ta có thể tự tạo ra hứng thú học tập cho học sinh từ những nhận xét, phát hiện nho nhỏ trong quá trình dạy học toán. Bài toán “Con cá” trong đề tài “ Tạo hứng thú học tập cho học sinh thông qua khai thác một bài toán Hình học 7” cũng nhằm mục đích như vậy. 1.2. Mục đích nghiên cứu 1.3. Đối tượng nghiên cứu “Đường thẳng song song – Đường thẳng vuông góc” là một đơn vị kiến thức cơ bản của phần Hình học thuộc chương trình Toán lớp 7, bên cạnh học sinh nắm được kiến thức mà còn phải biết vận dụng nó để làm các dạng bài tập khác, đó là nội dung mà tôi đã nghiên cứu và áp dụng trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài này tôi viết dưới dạng chuyên đề, trong đó hướng dẫn học sinh giải và tìm tòi, phát triển bài toán đã biết rồi tìm lời giải cho bài toán mới. Trong quá trình viết đề tài tôi đã áp dụng hai phương pháp nghiên cứu là: Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm – Giáo viên nghiên cứu và hướng dẫn học sính giải một bài toán: Bài 13 – Sách Bài tập Toán 7, tập 1 – trang 99 (ta gọi đó là Bài toán mở đầu) – Từ việc giải bài tập 13 (trang 99, sách bài tập Toán 7 tập I), giáo viên hướng dẫn học sinh phát triển và chứng minh các bài tập tổng quát là: Bài toán “Đầu cá”, Bài toán “Thân cá” và bài toán “Đuôi cá”. Từ đó hình thành bài toán “Con cá” – Các kĩ năng, kiến thức học sinh sử dụng khi học về “Đường thẳng song song – Đường thẳng vuông góc” là: Về kiến thức: + Thế nào là hai đường thẳng song song, hai đường thẳng vuông góc + Các góc tạo bởi một dường thẳng cắt hai đường thẳng + Các góc tạo bởi một đường thẳng cắt hai đường thẳng song song + Tiên đề Ơc – lit + Ba tính chất từ vuông góc đến song song Về kĩ năng: + Kĩ năng vẽ hai đường thẳng song song hoặc vuông góc + Kĩ năng phân tích và suy luận + Kĩ năng tổng hợp, đánh giá và phán đoán kết quả 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm a. Kết quả khảo sát thực trạng Trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 7 ở những năm về trước tôi thấy khả năng tư duy và sự vận dụng kiến thức về “Đường thẳng song song – Đường thẳng vuông góc” để giải bài tập của học sinh còn rất nhiều hạn chế nên dẫn tới kết quả đạt được chưa cao, cụ thể: Năm học Số lượng HS bồi dưỡng Khả năng vận dụng Yếu TB Khá Giỏi SL % SL % SL % SL % 2016 – 2017 15 6 40 5 33,3 4 26,7 0 0 2017 – 2018 15 5 33,3 5 33,3 4 26,7 1 6,7 b. Nguyên nhân Như chúng ta đã biết để giải một bài toán thường tiến hành theo 4 bước: – Bước 1: Phân tích bài toán. – Bước 2: Xây dựng sơ đồ giải. – Bước 3: Thực hiện chương trình giải . – Bước 4: Kiểm tra và nghiên cứu lời giải. Tôi nhận thấy cần phải có những giải pháp thực sự hiệu quả, thiết thực để nâng cao chất lượng đội ngũ học sinh giỏi Toán. Xuất phát từ điều đó để kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi cao hơn, tôi đã định hướng cho học sinh phương pháp học tập, rèn luyện kỹ năng giải bài tập, linh hoạt vận dụng các kiến thức để giải bài tập một cách hợp lý; từ một bài toán mà có thể vận dụng để giải được nhiều bài toán khác. 2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề – Giáo viên hướng dẫn học sính giải một bài toán: Bài 13 – Sách Bài tập Toán 7, tập 1 – trang 99 (ta gọi đó là Bài toán mở đầu) – Giáo viên hướng dẫn học sinh phát triển và chứng minh các bài tập tổng quát là: Bài toán “Đầu cá”, Bài toán “Thân cá” và bài toán “Đuôi cá”. Từ đó hình thành bài toán “Con cá” 2.3.1. Hướng dẫn học sinh giải bài toán mở đầu Trong sách Bài tập Toán 7, tập 1 (trang 99) có bài tập số 13, nội dung như sau: Trên hình vẽ, cho Ax Lời giải: Kẻ tia Cz Ta có: Cz By Suy ra: Cz Vì Ax (cặp góc so le trong) Vì By (cặp góc so le trong) Vậy : Lời nhận xét: Sau khi hướng dẫn cho học sinh cách giải bài toán trên, tôi nên yêu cầu học sinh nêu dự đoán về công thức tính số đo góc ACB trong trường hợp tổng quát khi biết số đo góc A và góc B. Từ kết quả đự đoán về công thức tính số đo góc ACB, tôi đưa ra bài toán tổng quát hơn mà tôi gọi là bài toán “Đầu cá” 2.3.2. Khai thác và phát triển bài toán mở đầu a) Bài toán “Đầu cá” Bài toán 1 (Bài toán “Đầu cá”) Cho hình vẽ, biết Ax Hướng dẫn giải: – Giáo viên đưa ra các câu hỏi gợi mở để định hướng cho học sinh cách giải giống như Bài toán mở đầu (Kẻ tia Cz Lời nhận xét: Từ thực tiễn dạy học tôi thấy rằng khi giáo viên đưa ra Bài toán 1 và giới thiệu đó là bài toán “Đầu cá” thì tất cả các học sinh đang học khi đó đều rất hào hứng và ham thích tìm hiểu, tạo ra sự gần gũi và hứng thú học tập cao của học sinh. Bài toán “Đầu cá” cho biết mối quan hệ của và với không phụ thuộc vào số đo của các góc nếu Ax Mấu chốt của lời giải bài toán “Đầu cá” này là kẻ thêm đường phụ Cz song song với Ax (hoặc By) Sau khi thực hiện xong bài toán 1 (Bài toán Đầu cá) tôi đưa ra các bài tập có hình vẽ tương tự bài tập 1 như tính số đo của 1 góc khi biết hai góc còn lại nhằm khắc sâu công thức và cùng đồng thời kiểm tra mức độ vận dụng kiến thức vừa học của học sinh Đối với học sinh lớp 7 mới tập dượt chứng minh hình học, nhất là với các kiến thức ở chương I – Đường thẳng vuông góc – Đường thẳng song song, thì đây là một bài toán khá hay. Khai thác bài toán, ta có nhiều bài toán tương tự khá thú vị. a.1. Ứng dụng của bài toán “Đầu cá” Bài 1 (bài 57, trang 104, SGK Toán 7, tập 1) Cho hình vẽ (a Hướng dẫn giải: – Ta tính được , sau đó sử dụng kết quả của bài toán “Đầu cá” suy ra x = 860 Bài 2 (bài 3, trang 91, SGK Toán 7, tập 2) Cho hình vẽ, biết a Hướng dẫn giải: – Từ kết quả bài toán 1, suy ra: 440 + (1800 – 1320) = 920 Bài 3 Cho hình vẽ, tính ? Hướng dẫn giải: Bước 1: Chứng minh Bx Bước 2: Sử dụng kết quả của bài toán “Đầu cá” suy ra = 360 Bài 4 Cho hình vẽ, biết Ax Hướng dẫn giải: Kẻ tia Cz Bài 5 Cho hình vẽ, biết Ax Hướng dẫn giải: Kẻ Cz Lời nhận xét: Sau khi hướng dẫn cho học sinh làm các bài tập vận dụng của bài toán “Đầu cá”, tôi đặt ra câu hỏi ngược lại cho học sinh là “ nếu vẫn là hỉnh vẽ như của bài toán 1 nhưng giả thiết lại cho thì liệu Ax có song song với By không? ” và từ đó đưa ra bài toán đảo của bài toán “Đầu cá” a.2. Bài toán đảo của Bài toán “Đầu cá” và ứng dụng Bài toán 2 (Bài toán đảo của Bài toán “Đầu cá”) Cho hình vẽ, biết . Chứng minh: Ax Lời giải: Kẻ: Cz Vì Cz Mà: Suy ra: (1) Theo giả thiết: (2) Từ (1) và (2) suy ra: Mà và là hai góc ở vị trí so le trong, từ đó suy ra: Cz Từ (a) và (b) suy ra: Ax Lời nhận xét: Như vậy, ở bài toán 2 tôi đã đưa ra bài toán đảo của bài toán “Đầu cá”, nhằm mục đích phát triển tư duy toán học của học sinh, biết cách lật ngược lại vấn đề để khác sâu kiến thức và qua đó tìm ra tri thức mới. Mấu chốt của lời giải bài toán 2 này là kẻ thêm đường phụ Cz song song với Ax (hoặc By) Sau khi giới thiệu và hướng dẫn học sinh chứng minh bài toán ngược lại của bài toán “Đầu cá”, tôi tiếp tục cho học sinh vận dụng kết quả của Bài toán 2 để nhận biết các cặp đoạn thẳng song song hoặc vuông góc bằng các hình vẽ tương tự để khắc sâu kiến thức cho học sinh. Ví dụ 1: Cho hình vẽ, hai tia Bx và Cy có song song với nhau không? Vì sao? Ví dụ 2: Cho hình vẽ, tia Bx và đường thẳng d có vuông góc với nhau không? Lời nhận xét: – Ở buổi học tiếp theo, tôi tiếp tục giới thiệu Bài toán “Thân cá” b) Bài toán “Thân cá” Bài toán 3 (Bài toán “Thân cá”) Cho hình vẽ, biết Ax Hướng dẫn giải: Cách 1: Kẻ tia đối Ax’ của tia Ax và tia đối By’ của tia By. Sử dụng kết quả của bài toán “Đầu cá” ta có: = 3600 Cách 2: Kẻ Cz Lời nhận xét: Sau khi thực hiện xong Bài toán 3 (Bài toán “Thân cá”) tôi đưa ra các bài toán có hình vẽ tương tự Bài tập 3 như tính số đo của 1 góc khi biết hai góc còn lại nhằm khắc sâu công thức và cùng đồng thời kiểm tra mức độ vận dụng kiến thức vừa học của học sinh b.1. Ứng dụng của bài toán “Thân cá” Ví dụ 1: Cho hình vẽ, biết Bx Gợi ý: Sử dụng kết quả của Bài toán “Thân cá”, ta tính được Ví dụ 2: Cho hình vẽ, tính góc B ? Gợi ý: Bước 1: Chứng minh Bx Bước 2: Sử dụng kết quả của bài toán “Thân cá” suy ra = 1450 Lời nhận xét: Sau khi hướng dẫn cho học sinh làm các bài tập vận dụng của bài toán “Thân cá”, tôi đặt ra câu hỏi ngược lại cho học sinh là “ Nếu vẫn là hỉnh vẽ như của Bài toán 3 nhưng giả thiết lại cho thì liệu Ax có song song với By không, và từ đó đưa ra bài toán đảo của bài toán “Thân cá” b.2. Bài toán đảo của bài toán “Thân cá” và ứng dụng Bài toán 4 (Bài toán đảo của bài toán “Thân cá”) Cho hình vẽ, biết: Chứng minh rằng: Ax Hướng dẫn giải: Kẻ Cz Mà: Suy ra: Cz Mà: Cz Suy ra: Ax Lời nhận xét: Sau khi giới thiệu và hướng dẫn học sinh chứng minh bài toán ngược lại của bài toán “Thân cá”, tôi tiếp tục cho học sinh vận dụng kết quả của Bài toán 4 để nhận biết các cặp đoạn thẳng song song hoặc vuông góc bằng các hình vẽ tương tự để khắc sâu kiến thức cho học sinh. Ví dụ 1: Cho hình vẽ, hai tia Bx và Cy có song song với nhau không? Vì sao? Gợi ý: Bước 1: Ta tính được: Bước 2: Sử dụng kết quả của Bài toán đảo của bài toán “Thân cá, suy ra: Bx Ví dụ 2: Cho hình vẽ, tia Cy và đường thẳng d có vuông góc với nhau không? Gợi ý: Bước 1: Tính được Bước 2: Ta tính được: Bước 3: Sử dụng kết quả của Bài toán đảo của bài toán “Thân cá”, suy ra: Bx Bước 4: Vì mà Bx c) Bài toán “Đuôi cá” Lời nhận xét: Sau khi học bài “Tổng ba góc trong một tam giác” của chương II – Toán 7, nếu thay đổi giả thiết của bài toán “Đầu cá”: Ax không song song với By thì ta có bài toán sau: Bài toán 5 (Bài toán “Đuôi cá”) Cho hình vẽ. Chứng minh rằng: Hướng dẫn giải: Kẻ tia MC, sử dụng tích chất góc ngoài của tam giác, ta có: và Kẻ tia MC, sử dụng tích chất góc ngoài của tam giác, ta có: Suy ra: c.1. Ứng dụng của bài toán “Đuôi cá” Ví dụ 1: Cho hình vẽ, tính góc A ? Gợi ý: Sử dụng kết quả của Bài toán “Đuôi cá”, ta tính được: Ví dụ 2: Cho hình vẽ, tính góc D ? Gợi ý: Sử dụng kết quả của Bài toán “Đuôi cá”, ta tính được: Ví dụ 3: Cho hình vẽ, tính và ? Gợi ý: Sử dụng kết quả của Bài toán “Đuôi cá”, ta tính được: ; Lời nhận xét: – Kết hợp các bài toán trên, ta được bài toán con cá hoàn chỉnh: d) Bài toán “Con cá” Bài toán 6 (Bài toán “Con cá”) Cho hình vẽ, biết AB//CD. Tính góc x, y, z ? A B C D Hướng dẫn giải: – Sử dụng kết quả của 3 bài toán Đầu cá, Thân cá và Đuôi cá – Kết quả: x = 750 ; y = 1550; z = 900 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường + Học sinh được rèn luyên khả năng tư duy và kỹ năng giải toán, đặc biệt học sinh biết kiểm tra và nghiên cứu lời giải, biết vận dụng linh hoạt trục căn thức ở mẫu vào giải toán cũng như vận dụng một bài toán đã biết về giải bài toán mới. + Học sinh biết khai thác bài toán, sáng tạo trong các tình huống mới và mang lại cho các em hứng thú tích cực trong học tập và yêu thích bộ môn toán. Kết quả khảo sát: Năm học Số lượng HS bồi dưỡng Khả năng vận dụng Yếu TB Khá Giỏi SL % SL % SL % SL % 2018 – 2019 15 0 0 4 26,7 5 33,3 6 40 Với kết quả thu được như trên, tôi càng vững tin hơn trong công tác dạy học của mình, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận Từ một bài toán ban đầu có sử dụng kiến thức về “Đường thẳng song song và đường thẳng cắt nhau”, tôi đã khai thác, vận dụng để giải các bài tập khác trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán lớp 7. Từ khi áp dụng đề tài này vào thực thế dạy học, tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm sau: Một là: Trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi, giáo viên cần hệ thống, phân loại bài tập thành từng dạng. Giáo viên xây dựng từ kiến thức cũ đến kiến thức mới, từ cụ thể đến tổng quát, từ dễ đến khó và phức tạp, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh. Hai là: Giáo viên cần phát huy, chú trọng tính chủ động tích cực và sáng tạo của học sinh từ đó các em có nhìn nhận bao quát, toàn diện và định hướng giải toán đúng đắn. Ba là: Cần tập cho học sinh suy luận và sáng tạo, phát hiện những bài toán mới, những vấn đề mới, xuất phát từ những bài toán đã biết. 3.2. Kiến nghị Trong những năm qua, nhà trường THCS Nguyễn Bá Ngọc luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao và chăm lo về mọi mặt đặc biệt là công tác chuyên môn, vì thế đã có nhiều chuyển biến tích cực và có những thành công nhất định. Song bên cạnh đó để thành công hơn và hoàn thành tốt được nhiệm vụ thì tôi xin đề xuất với ngành một số vấn đề sau: – Thường xuyên tổ chức hội thảo, tập huấn về những chuyên đề, đặc biệt là nhưững chuyên đề về: Đổi mới PPDH môn Toán; Nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán; Nâng cao chất lượng học sinh thi vào lớp 10 môn Toán – Quan tâm nhiều hơn nữa đến những trường ở trên địa bàn khó khăn. Mọi dòng sông lớn đều bắt nguồn từ những con suối nhỏ, mọi bài toán khó đều khởi nguồn từ những bài toán đơn giản hơn. Vì vậy để học giỏi môn Toán thì không những người học cần phải nắm vững các bài toán cơ
Bài 11: Mục Đích Học Tập Của Học Sinh
Bài tập 1: Em hãy cho biết mục đích học tập của học sinh là gì ?
Mục đích học tập của học sinh là :
+ Học tập để trở thành con ngoan, trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ, người công dân tốt, trở thành con người chân chính, có đủ khả năng lao động để tự lập nghiệp và góp phần xây dựng quê hương, đất nước, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Bài 2 trang 37 Sách bài tập (SBT) GDCD 6
Bài tập 2: Theo em, thế nào là mục đích học tập đúng đắn ? Thế nào là mục đích học tập sai ? Cho ví du.
– Mục đích học tập đúng đắn là không chỉ học tập vì tương lai của bản thân mà phải học vì tương lai của dân tộc.
Để đạt được mục đích đề ra, học sinh cần :Tu dưỡng đạo đức, học tập tốt, tích cực tham gia các hoạt động tập thể và hoạt động xã hội để phát triển toàn diện nhân cách.
– Mục đích học tập sai là chỉ biết đến quyền lợi của bản thân mà không nghĩ gì đến ai cả.
Bài 3 trang 37 Sách bài tập (SBT) GDCD 6
Bài tập 3: Vì sao học sinh phải biết xác định mục đích học tập đúng đắn ?
Vì:
– Xác định mục đích học tập đúng đắn “Vì tương lai của bản thân gắn liền với tương lai của dân tộc” Thì sẽ học tập tốt.
– Ứng dụng các kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống.
A. Làm cho cuộc sống của bản thân sau này tốt hơn
B. Đế có bằng cấp, có địa vị cao trong xã Hội
c. Để có khả năng lao động tốt, làm giàu cho gia đình và quê hương
D. Để được nhiều người nể phục, kính trọng
A. Chỉ hôm nào cô dặn sẽ kiểm tra thì Hoan mới học kĩ bài
B. Vì sợ thua điểm Lan về môn Toán nên Vân dành nhiều thời gian và cố gắng học thật kì môn này
c. Ngày nào Toàn cũng làm bài, học bài đủ các môn để nắm vững kiến thức.
D. Sợ bị cha mẹ mắng nên Liên luôn cố gắng học tốt.
bài tập 6: Em tán thành hoặc không tán thành với những ý kiến nào dưới đây
D. Những học sinh nghèo thì mới cần cô gắng học để thoát nghèo.
Bài 7 trang 38 Sách bài tập (SBT) GDCD 6 Bài tập 7:
Hiền là một học sinh được coi là học hành có nền nếp vì em thường xuyên chuẩn bị bài đầy đủ trước khi đến lớp. Có bạn hỏi “bí quyết” của Hiền để có thế chuẩn bị bài chu đáo như vậy, thì Hiển “bật mí” : “Tớ chỉ làm những bài tập dễ, còn những bài khó thì tớ mang sách giải ra chép. Làm như vậy. tớ không phải mất nhiều thời gian suy nghĩ, cốt sao cho đủ số bài tập, còn có thiếu hay không sau sẽ tính !”.
Câu hỏi
Em có tán thành cách học của Hiền không ? Vì sao ?
Không tán thành cách học của Hiền vì chỉ mang tính chất đối phó, sẽ không hiểu bài, không nắm vững kiến thức
Bài 8 trang 39 Sách bài tập (SBT) GDCD 6 Bài tập 8:
Hưng là một học sinh giỏi của lớp 6A và là người có tinh thần giúp đỡ bạn trong học tập. Bạn gặp khó khăn gì, hỏi gì, Hưng cũng sẵn sàng giúp đỡ, giúp bạn hiểu bài. Nhưng trong giờ kiểm tra, Hưng rất lấy làm khổ sở vì cứ luôn bị các bạn ngồi xung quanh, ngồi phía sau đòi nhìn bài của Hưng. Cho bạn nhìn bài là vi phạm nội quy, nhỡ thầy cô mà bắt được thì nguy to cho cả hai. Nhưng nếu không cho nhìn bài thì bạn lại bảo là ích kỉ, chỉ biết mình, không biết giúp đỡ bạn bè trong lúc nguy khốn và có thể mất bạn.
Câu hỏi :
1/ Nỗi khổ của Hưng là gì ? Ở lớp em, trường em có hiện tượng như vậy không ? Nó tồn tại ở mức độ nào ?
2/ Hãy nêu nhận xét của em về mục đích, động cơ học tập của một số bạn hay nhìn bài của người khác.
3/ Em hãy giúp Hưng cách ứng xử trong tình huống nêu trên.
4/ Theo em, để chấm dứt cảnh khó xử này, mỗi học sinh cần phải làm gì ?
– Nhìn bài của bạn là hành vi sai trái, thiếu trung thực trong học tập, xuất phát từ mục đích, động cơ học tập không đúng đắn.
– Muốn chấm dứt hiện tượng gian lận trong học tập, mỗi học sinh cần xác định mục đích học tập đúng đắn và chăm chỉ học tập.
– Nhiệm vụ của học sinh chỉ là học, không cần thiết phải quan tâm đến những thay đổi đang diễn ra xung quanh về kinh tế, văn hoá, xã hội…
– Học phải kết hợp với hành, học ở mọi nơi, mọi lúc, học ở mọi người, phải biết liến hệ với thực tế cuộc sống thì mới nắm chắc kiến thức, kĩ năng và vận dụng được trong cuộc sống và lao động sau này.
Em tán thành ý kiến nào ? Vì sao ? Để thực hiện được điều đó, các em phải làm gì?
– Tán thành ý kiến thứ hai vì như vậy học sinh mới thực hiện được mục đích học tập của mình.
– Để thực hiện, học sinh phải chăm chỉ, tự giác, trung thực trong học tập ; tích cực tham gia các hoạt động mà nhà trường và địa phương tổ chức.
Vì saọ chị Toàn đã chọn học ngành Chăn nuôi thú y?
Toàn là người dân tộc Cơ tu. Toàn đã chọn học ngành chăn nuôi thú ý là vì muốn giúp đỡ cho bà con cách chăn sóc vật nuôi hiệu quả. Toàn cho biết nơi mình ở cuộc sống của bà con người Cơ-tu còn rất nghèo, chủ yếu là làm lúa và trồng sắn nên mức sống được cải thiện khá chậm. Là người được cha mẹ đầu tư cho theo học nên từ nhỏ luôn đau đáu ước mơ một ngày kia được về lại thôn Pă Lanh giúp người dân. Toàn nghĩ : nếu chỉ dựa vào trồng lúa và trồng sắn thì bà con chỉ đủ cái ăn chứ khó khá giả lên được. Quê mình đất đai rộng lớn, nguồn thức ăn dồi dào nên nếu chọn chăn nuôi sẽ rất phát triển, nhưng khổ nỗi bà con nhận thức còn thấp, năm nào cũng xảy ra dịch bệnh khiến vật nuôi cứ thế mà teo tóp dần, quê nghèo đi thế”. T
Để thực hiện niềm đam mê của mình, chị đã quyết tâm học tập và đạt kết quả như thế nào ?
Để thực hiện niềm đam mê của mình, chị đã quyết tâm học tập và đạt kết quả cao. 4 năm tại Đại học Tây Nguyên. Toàn liên tiếp đứng nhất nhì về kết quả học tập của lớp: ba năm liên tiếp giành học bổng. Kết quả học tập năm thứ ba hệ tín chỉ Toàn đạt mức 3,45 trung bình năm (thang điểm cao nhất là 4) – đạt sinh viên xuất sắc.
Em có suy nghĩ gì về mục đích học tập của chị Toàn ?
Mục địch học tập của chị Toàn là vô cùng đúng đắn và được chị quyết tâm thực hiện. Thương bà con nghèo, thương cha mẹ vất vả ngày đêm chăn nuôi nhưng dịch bệnh, chị Toàn đã quyết tâm trở thành bác sĩ thú y về làm giàu cho địa phương, và muốn trở thành chủ trang trại.
Skkn Rèn Kĩ Năng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 4
TT Nội dung Trang 1 I. MỞ ĐẦU 1 2 1. Lí do chọn đề tài: 1 3 2. Mục đích nghiên cứu. 2 4 3. Đối tượng nghiên cứu. 2 5 4. Phương pháp nghiên cứu. 2 6 II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2 7 1. Cơ sở lí luận 2 8 2. Thực trạng của vấn đề 3 9 3. Các giải pháp 5 10 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 13 11 III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 14 12 1. Kết luận. 14 13 2. Kiến nghị. 14 I. MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Như chúng ta đã biết, Toán học là một trong những môn học đòi hỏi sự tư duy sáng tạo cả người dạy và người học. Chính vì thế, để mỗi học sinh chiếm lĩnh được tri thức nói chung và Toán học nói riêng thì mỗi người thầy cô phải thật sự tâm huyết khơi nguồn tri thức đến mỗi học sinh. Thật vậy, tri thức trong xã hội là chìa khóa vạn năng để mở tất cả các cánh cửa của loài người. Muốn có tri thức thì mỗi người học sinh phải học và phải học thật tốt. Việc học phải trải qua quá trình nghiền ngẫm, suy luận tìm tòi mới có được. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của nhà trường hiện nay là hình thành, phát triển trí tuệ cho học sinh. Trong các môn học nói chung và môn Toán nói riêng đều có nhiệm vụ trao dồi kiến thức, rèn luyện kĩ năng góp phần tích cực vào việc đào tạo con người. Trong các môn khoa học và kĩ thuật , Toán học giữ một vai trò nổi bật. Nó còn là môn thể thao trí tuệ giúp ta rèn luyện phương pháp suy nghĩ, suy luận, học tập và giải quyết vấn đề. Toán học còn giúp ta phát huy một số đức tính quý báu như: cần cù, nhẫn nại, tự lực cánh sinh, ý chí vượt khó, yêu thích sự chính xác, khẳng định chân lí. Môn Toán là một trong những môn học bắt buộc được dạy trong chương trình Tiểu học. Cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị trí hết sức quan trọng. Các kiến thức và kĩ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong cuộc sống, trong lao động cũng như trong quá trình học sinh học lên các cấp học sau này. Trong chương trình môn Toán ở Tiểu học được cấu trúc theo vòng tròn đồng tâm và chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn một là các lớp 1, 2, 3 và giai đoạn hai là các lớp 4, 5. Vì trong chương trình Toán lớp 4 nói chung và Toán có lời văn lớp 4 nói riêng là mở đầu là mở đầu giai đoạn hai ở tiểu học. Giai đoạn này, việc giải toán có sự yêu cầu và đòi hỏi cao hơn. Đó là, học sinh phải biết phân tích bài toán hợp thành bài toán đơn, đưa những bài toán phức tạp về các bài toán đơn giản hơn mà các em đã biết cách giải. Học sinh biết vận dụng phép phân tích, tổng hợp trong quá trình tìm, xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch giải. Vì vậy, đây là cơ sở ban đầu rất quan trọng của một giai đoạn mới trong quá trình học toán ở Tiểu học nói chung và giải toán có lời văn nói riêng. Xuất phát từ thực tế dạy học, năm học 2017- 2018 tôi được nhà trường phân công phụ trách lớp 4C. Ngay từ những ngày đầu năm học, khi dạy đến các bài toán có lời văn, tôi đã nhận thấy trong lớp mình còn nhiều học sinh gặp khó khăn khi giải toán. Qua khảo sát, điều tra cụ thể, có trên 40% số học sinh trong lớp kĩ năng giải toán chưa đạt yêu cầu. Và đây cũng là điều tôi suy nghĩ rất nhiều, nếu các em giải toán còn yếu thì làm sao nắm được cách giải các bài toán dựa vào sơ đồ đoạn thẳng, dùng chữ thay số, rút về đơn vị và một số dạng toán điển hình của lớp 4 như: tìm hai số khi biết tổng hiệu, tổng tỉ, hiệu tỉ. Xuất phát từ những lí do trên, tôi mạnh dạn đưa ra và nghiên cứu đề tài “Rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 4”. Với hi vọng sau khi nghiên cứu sẽ góp phần nâng cao trình độ của bản thân, góp phần nâng cao chất lượng dạy học mạch kiến thức giải toán có lời văn ở lớp 4. Qua sáng kiến này tôi cũng muốn nhận được nhiều ý kiến trao đổi của bạn bè đồng nghiệp, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học giải toán có lời văn cho học sinh nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Như chúng ta đã biết, việc giải toán có lời văn của học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng là việc rất khó khăn đối với các em. Chính vì thế để giúp các em nắm được cách giải của một bài toán là một việc làm cần thiết. Mặt khác, để giải được một bài toán đúng các em cần phải nắm chắc và tổng hợp nhiều kiến thức toán học. Vì vậy, mục đích của đề tài này tôi đưa ra là: + Học sinh có khả năng phân tích, tổng hợp, nhận dạng bài toán và giải tốt các bài toán có lời văn. + Biết cách giải bài toán có lời văn lớp 4 một cách linh hoạt. + Biết cách trình bày bài toán một cách khoa học, chính xác, đầy đủ. + Đối với bản thân giáo viên: tự tìm tòi, nâng cao tay nghề, đức rút kinh nghiệm trong giảng dạy, nhất là mạch kiến thức toán có lời văn lớp 4. 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Với mục đích nghiên cứu của đề tài này, khi nghiên cứu tôi hướng tới các bài toán có lời văn trong sách giáo khoa lớp 4. Được sự nhất trí và tạo điều kiện của ban giám hiệu nhà trường và tổ chuyên môn, tôi chọn đối tượng nghiên cứu là lớp 4C trường Tiểu học Hoàng Hoa Thám do tôi phụ trách. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong đề tài này tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: + Nghiên cứu trên cơ sở lí luận. + Phương pháp điều tra khảo sát thực tế. + Phương pháp thống kê dữ liệu. + Phương pháp trò chuyện, quan sát, điều tra, phỏng vấn. + Phương pháp thực nghiệm sư phạm, trao đổi với đồng nghiệp. + Phương pháp nghiên cứu qua sản phẩm của học sinh. II. NỘI DUNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN Trong các môn học ở tiểu học, cùng với môn TV, môn Toán có vị trí hết sức quan trọng. Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống; chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học tốt các môn học khác ở Tiểu học và chuẩn bị cho việc học tốt môn Toán ở bậc trung học. Mặt khác, giải toán có lời văn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho HS năng lực tư duy và đức tính tốt của con người lao động mới, hoạt động trí tuệ trong việc giải toán góp phần giáo dục các em ý chí vượt khó, đức tính cẩn thận, chu đáo làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo vv… Song đối với học sinh lớp 4, các em còn hiếu động, ham chơi, chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học nên thường lơ là, xem thường việc học toán. Chính vì thế, việc rèn kĩ năng giải toán có lời văn là việc làm cần thiết, từ đó học sinh có kiến thức toán học một cách tốt hơn. * Nội dung chương trình Toán lớp 4 gồm : – Ôn tập về số tự nhiên. Bảng đơn vị đo khối lượng. – Bốn phép tính với só tự nhiên. Hình học. – Dấu hiệu chí hết cho 2,5,9,3. Giới thiệu hình bình hành. – Phân số – các phép tính với phân số. Giới thiệu hình thoi. – Ôn tập các nội dung trên. 2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ. 2.1. Thực trạng chung Như chúng ta đã biết, chương trình toán lớp 4 là mở đầu cho giai đoạn hai của toán Tiểu học. Chính vì thế, lượng toán giải chiếm số lượng tương đối lớn, trong đó đa số là dạng toán điển hình. Mức độ khó của các bài toán giải cũng đã được nâng lên, chủ yếu là các bài toán hợp. Chính vì thế, để giải được bài toán đòi hỏi học sinh phải sử dụng nhiều kiến thức đã học để giải quyết vấn đề. Đứng trước tình hình đó, nhiều học sinh đã có biểu hiện không hứng thú với việc giải toán. Mặt khác, do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của các em thường vội vàng, hấp tấp hay đơn giản hóa vấn đề nên đôi khi chưa hiểu kĩ đề, làm bài chưa cẩn thận đã nộp bài. Từ đó dẫn đến bài làm còn nhiều khi bị sai, thiếu sót. Đối với giáo viên còn phải dạy nhiều môn học, số lượng học sinh trong một lớp đông, khả năng tiếp thu của các em không đồng đều, có sự chênh lệch nhiều. Chính vì thế, việc truyền tải kiến thức toán học nói chung và giải toán có lời văn nói riêng đến từng học sinh còn có phần hạn chế. Đối với các em tiếp thu chậm thì việc nắm kiến thức mới và giải các bài toán có lời văn là một việc vô cùng khó khăn. Bên cạnh đó, trong lớp còn có học sinh tâm lí không ổn định, một số em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ chưa quan tâm đến việc học hành của con cái. Chính vì thế mà đôi khi, chưa có sự thống nhất cao giữa giáo viên và cha mẹ học sinh. Từ đó, hiệu quả học tập của các em chưa cao, nhất là việc giải toán có lời văn lại là sự cản trở lớn trong việc hoc tập của các em. 2.2.Thực trạng của trường, lớp Trường Tiểu học Hoàng Hoa Thám là ngôi trường nằm ở trung tâm thành phố Thanh Hóa. Bản thân tôi mới về nhận công tác được gần ba năm nhưng tôi nhận thấy, đây là ngôi trường luôn được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo địa phương. Trường có một tập thể cán bộ giáo viên với nhiều bề dày kinh nghiệm, có trình độ chuẩn và trên chuẩn luôn tâm huyết với nghề. Cùng với đó là ban giám hiệu luôn quan tâm tạo điều kiện để giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Chính vì thế mà ngôi trường đã đón nhận gần một nghìn học sinh. Đây là ngôi trường mà các bậc phụ huynh luôn đặt niềm tin cao, để gửi gắm cho em mình về đây học tập. Bên cạnh những mặt thuận lợi trên thì bản thân tôi còn nhận thấy một số mặt khó khăn hạn chế mà trường và lớp tôi gặp phải đó là: khuôn viên trong trường đang hẹp so với số lượng học sinh, diện tích phòng học chưa đảm bảo, số lượng học sinh trong một lớp đông. Chính vì thế mà phần nào đã ảnh hưởng đến việc học tập, vui chơi và sinh hoạt của các em. Còn về phần lớp4C do tôi chủ nhiệm tổng số học sinh là 42 em, trong đó có 21 em nam và 21 em nữ. Nhìn chung các em ngoan, chịu khó học bài và làm bài, phụ huynh cũng trang bị đầy đủ sách vở và đồ dùng học tập. Song từ khi nhận lớp, tôi đã nhận thấy một số em trong lớp còn hiếu động, chưa tập trung tiếp thu bài, khả năng tiếp thu còn chậm, có cả học sinh tâm lí không bình thường.Phụ huynh đa số là buôn bán tự do, một số gia đình có hoàn cảnh khó khăn nên chưa sát sao đến việc học tập của con em mình. Chính vì thế, một số em đã có tính ỉ lại, chưa có sự chịu khó, vươn lên để học tập. Đặc biệt việc nắm kiến thức giải toán có lời văn đối với các em lại càng hạn chế hơn. Bên cạnh đó khả năng tiếp thu các kiến thức của các em không đồng đều. Đối với các em tiếp thu tốt thì việc vận dụng linh hoạt các kiến thức đã học vào từng bài cụ thể là rất tốt. Song đối với các em tiếp thu chậm, khả năng vận dụng kiến thức tổng hợp vào từng bài cụ thể là hết sức khó khăn. Do đó, đối với giáo viên việc vừa dạy kiến thức mới, vừa ôn tập củng cố và dẫn dắt học sinh giải một bài toán là việc làm thường xuyên và cần thiết. Ngay từ khi nhận lớp, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng của lớp để nắm bắt và phân loại đối tượng học sinh trong lớp cụ thể đề khảo sát là: Câu 1: Lớp 4D có 20 học sinh nam và 12 học sinh nữ. Hỏi số học sinh nữ ít hơn số học sinh nam là bao nhiêu em? Câu 2: Một xe ô tô chuyến trước chở được 3 tấn muối, chuyến sau chở nhiều hơn chuyến trước 3 tạ. Hỏi cả hai chuyến chở được bao nhiêu tạ muối? Câu 3: Lớp 4A trồng được 36 cây, lớp 4B trồng nhiều hơn lớp 4A 6 cây. Hỏi trung bình mỗi lớp trồng được bao nhiêu cây? Kết quả khảo sát thu được là: Tổng số Học sinh Giải đúng và nhanh SL TL Giải đúng nhưng còn chậm SL TL Giải chưa đúng SL TL 42 14 33,3 16 38,2 12 28,5 3. CÁC GIẢI PHÁP 3.1. Rèn cho học sinh các kiến thức và kĩ năng toán học, biết vận dụng linh hoạt các kiến thức và kĩ năng đó vào việc giải toán có lời văn. Để giải bài toán này thì học sinh cần vận dụng hai mạch kiến thức để giải. Đó là tính tổng số cân nặng của 4 em và lấy tổng chia cho 4 để ra trung bình số cân nặng của mỗi em. Song đối với những em tiếp thu chậm, chỉ tính số cân nặng của 4 em là xong. Ví dụ: Trung bình mỗi em cân nặng là: ( 36 + 38 + 40 + 34) = 148 ( kg) – Muốn tìm trung bình mỗi em nặng bao nhiêu trước hết ta phải làm gì? ( Tính tổng số tuổi của 4 em) – Để tìm trung bình cộng số tuổi của 4 em ta làm như thế nào? ( Ta lấy tổng số tuổi chia cho 4) Qua đó, học sinh sẽ hiểu rõ hơn, để giải quyết bài toán này cần phải vận dụng hai mạch kiến thức đã học. Với bài toán khác: Một hình chữ nhật có nửa chu vi là 35m, chiều dài bằng 3 Chiều rộng. Tính diện tích hình chữ nhật đó? 2 Để học sinh giải tốt được bài toán này thì giáo viên cần giúp học sinh nắm tổng hợp các kiến thức. Khi phân tích đề giáo viên có thể biểu diễn bằng sơ đồ đoạn thẳng để học sinh dễ dàng nhận ra. Chiều dài: 35m Chiều rộng: Nhìn vào sơ đồ, học sinh có thể thấy nửa chu vi hình chữ nhật chính là tổng của một chiều dài và một chiều rộng và là tổng của hai số. Đến đây học sinh dễ dàng nhận ra đây là dạng toán “ Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó”. Như vậy, để tìm được chiều dài, chiều rộng của hình chữ nhật học sinh phải vận dụng cách giải dạng toán trên. Khi tìm được chiều dài, chiều rộng thì một kiến thức cần củng cố cho học sinh là cách tính diện tích hình chữ nhật. 3.2. Rèn luyện qua các bước giải để học sinh có kĩ năng giải bài toán Như chúng ta đã biết, để giải được bài toán, ta phải tiến hành qua một số bước cụ thể như sau: Bước 1: Rèn kĩ năng đọc và phân tích bài toán – Kĩ năng đọc là một trong các kĩ năng được quan tâm chú trọng ngay từ khi các em vào học lớp 1. Kĩ năng này vẫn được rèn luyện cho các em ở các lớp trên thông qua môn tập đọc và một số môn khác. Tuy là học sinh lớp 4 nhưng kĩ năng đọc của một số em chưa tốt. – Với những em đọc chưa tốt thì tôi luôn dành nhiều thời gian hơn cho các em được rèn kĩ năng đọc, không những trong giờ tập đọc mà còn trong cả tiết học khác như: Lịch Sử, Địa Lý, Khoa Học…Không những các em ngắt nghỉ chưa đúng mà việc đọc bỏ từ, thiếu từ thì sẽ dẫn đến các em hiểu sai đề. Ví dụ: với đề toán “ Cả hai lớp 4A và 4B trồng được 600 cây. Lớp 4A trồng được ít hơn lớp 4B là 500 cây. Hỏi mỗi lớp trồng được bao nhiêu cây?” ( Trang 47- SGK Toán 4). Nếu học sinh đọc không cẩn thận sẽ bỏ đi từ “ ít” thì cách hiểu bài toán lại hoàn toàn ngược lại. Chính vì thế, bước đầu tiên phải giúp học sinh đọc đề chính xác. Mặt khác, các em đọc đề tốt cũng chưa hẳn các em hiểu đề tốt. Do đó, khâu phân tích đề cũng rất quan trọng. Trong bài toán, đôi khi người ta sử dụng bằng các ngôn ngữ tự nhiên như “ bay đi”, “ cho đi”, “ ăn đi”… có nghĩa là số lượng đã được bớt đi. Hay các từ “ đổ đều”, có nghĩa là chia đều. Hay với những dạng toán tổng hiệu, tổng tỉ, hiệu tỉ. Đôi khi trong bài toán người ta không nói rõ đâu là tổng, đâu là hiệu và đâu là tỉ. Song qua việc phân tích đề bài ta phải xác định ra đâu là các dữ kiện bài toán đã cho tương ứng với từng dạng toán. Có bài toán dạng tổng tỉ như sau: Ví dụ: “Có 10 túi gạo nếp và 12 túi gạo tẻ cân nặng tất cả là 220kg. Biết rằng số gạo trong mỗi túi đều cân nặng bằng nhau. Hỏi có bao nhiêu kg gạo mỗi loại?” ( Trang 152-SGK Toán 4). Trong bài toán này các em phải hiểu được “ tổng” của hai số được thay bằng cụm từ “ nặng tất cả”, tỉ số của hai số đó chính là số túi gạo nếp và số túi gạo tẻ. Chính vì thế, trước một bài toán các em phải biết phân tích đề và đưa bài toán về các dạng toán quen thuộc để giải. Mặt khác, trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong học toán có nhiều từ gần như là “ mặc định” trong đầu các em. Ví dụ các em cứ thấy từ “ nhiều hơn” là nghĩ đến phép cộng và từ “ ít hơn” là nghĩ đến phép trừ. Nên khi gặp một bài toán có các từ như thế thì các em dễ giải sai. Ví dụ bài toán: Trong đợt phát động trồng cây, lớp 4A trồng được 32 cây, lớp 4B trồng được nhiều hơn lớp 4A là 3 cây nhưng ít hơn lớp 4C là 6 cây. Hỏi trung bình mỗi lớp trồng được bao nhiêu cây? Có một số học sinh đã trình bày bài giải như sau: Lớp 4B trồng được số cây là: 32 + 6 = 38 ( cây) Lớp 4C trồng được số cây là: 32 – 6 = 26 ( cây) Như vậy, các em đã bị ám bởi từ “ít hơn”, từ này đã làm lạc hướng học sinh nên các em đã chọn phép tính trừ trong phép tính thứ hai, trong khi phép tính đúng là phép cộng. Thật vậy, để giúp học sinh đọc kĩ bài toán thì tôi luôn rèn cho học sinh kĩ năng đọc, đồng thời để học sinh phân tích, xác định được dạng toán thì cần phải giúp học sinh hiểu đề. Như chúng ta đã biết, mỗi đề toán thường có hai bộ phận, bộ phận thứ nhất là những điều đã cho, bộ phận thứ hai là những điều chúng ta phải tìm. Muốn giải bất kì bài toán nào thì chúng ta cũng phải xác định đúng hai bộ phận đó. Chúng ta cần giúp học sinh tập trung vào những từ quan trọng gọi là từ khóa của đề toán. Từ nào chưa hiểu thì phải tìm hiểu ý nghĩa của nó. Cần giúp học sinh phân biệt rõ những gì thuộc về bản chất của đề toán, những gì không thuộc về bản chất của đề toán, để từ đó hướng sự chú ý của mình vào những chỗ cần thiết. Đồng thời khi giải toán tôi yêu cầu học sinh đọc đề nhiều lần, rồi hướng học sinh phân tích xem bài toán cho ta biết gì? Hỏi ta điều gì? Từ đó học sinh phân biệt được các yếu tố cơ bản của bài toán có lời văn. Những dữ kiện ( cái đã cho), những ẩn số (cái chưa biết, cần tìm), những điều kiện ( quan hệ giữa các điều kiện và ẩn số). Khi học sinh đọc đề toán mà giáo viên nhận thấy từ nào trong đề bài mà học sinh có khả năng không hiểu thì bằng nhiều cách khác nhau để giúp học sinh hiểu từ đó. Ví dụ, với bài toán đã nêu ở trên, tôi nhận thấy rằng, nếu để các em tự lực thì sẽ có nhiều em lựa chọn sai phép tính ở lời giải thứ hai. Chính vì thế, khi học sinh đọc đề và phân tích đề, tôi cho học sinh giải thích xem là em hiểu “ Lớp 4B trồng được nhiều hơn lớp 4A là 3 cây nhưng ít hơn lớp 4C là 6 cây có nghĩa là như thế nào?” Từ các lí do nêu trên cho chúng ta thấy việc đọc đề, phân tích và hiểu đề là một trong những việc làm cần thiết để giải bài toán có lời văn. Bước 2: Tóm tắt đề và lập kế hoạch giải bài toán Thật vậy, sau bước đọc đề và phân tích đề thì
Skkn Biện Pháp Rèn Kỹ Năng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 5
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 PHẦN I
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. LỜI MỞ ĐẦU: Quý thầy cô giáo thân mến! Dạy học là nghề cao quí nhất trong các nghề cao quí, bởi dạy học là dạy người. Xã hội phát triển cần phải nâng cao trình độ dân trí. Yêu cầu đặt ra cho các nhà giáo dục hiện nay là đào tạo lớp người trong tương lai vừa có trình độ khoa học kĩ thuật vừa có đạo đức của người lao động mới, nghĩa là đào tạo lớp người phát triển toàn diện. Là một giáo viên, tôi muốn cùng đồng nghiệp trao đổi kinh nghiệm giảng dạy, cùng đồng nghiệp góp chút công sức của mình vào sự nghiệp giáo dục để phần nào đó đáp ứng yêu cầu hiện nay của ngành. Tôi mong rằng qua những kinh nghiệm tôi trao đổi sau đây được đồng nghiệp quan tâm, chia sẻ để có được những giờ dạy hiệu quả. 2. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Môn toán ở trường Tiểu học bên cạnh mục tiêu trang bị cho học sinh những kiến thức toán học còn có nhiệm vụ hình thành cho học sinh các năng lực toán học, trong đó hoạt động giải toán được xem là hình thức chủ yếu để hình thành phẩm chất và năng lực toán học cho học sinh. Môn Toán có tầm quan trọng vì toán học với tư cách là một bộ phận khoa học nghiên cứu hệ thống kiến thức cơ bản và sự nhận thức cần thiết trong đời sống sinh hoạt và lao động của con người. Môn Toán là ”chìa khoá” mở cửa cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới. Vì vậy, môn toán là bộ môn không thể thiếu được trong nhà trường, nó giúp con người phát triển toàn diện, nó góp phần
Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
1
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 giáo dục tình cảm, trách nhiệm, niềm tin và sự phồn vinh của quê hương đất nước. Trong dạy – học toán ở tiểu học, việc giải toán có lời văn chiếm một vị trí quan trọng. Có thể coi việc dạy – học giải toán là ”Hòn đá thử vàng” của dạy – học toán. Trong giải toán, học sinh phải tư duy một cách tích cực và linh hoạt, huy động tích cực các kiến thức và khả năng đã có vào tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp phải biết phát hiện những dữ kiện hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và trong chừng mực nào đó, phải biết suy nghĩ năng động, sáng tạo. Vì vậy có thể coi giải toán có lời văn là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ của học sinh. Với các chức năng: Chức năng giáo dục, chức năng giáo dưỡng, chức năng phát triển và chức năng kiểm tra, việc dạy – học giải toán là điều kiện để thực hiện tốt các mục tiêu dạy – học toán. Tổ chức có hiệu quả việc dạy – học giải toán có vai trò quyết định đối với chất lượng dạy – học giải toán. Hoạt động giải toán là một hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp. Hình thành kỹ năng giải toán khó hơn nhiều so với kỹ năng tính vì các bài toán là sự kết hợp đa dạng nhiều khái niệm, nhiều quan hệ toán học. Giải toán không đơn thuần là làm theo mẫu mà đòi hỏi người giải toán phải nắm chắc khái niệm, quan hệ toán học, nắm chắc ý nghĩa của phép tính, có khả năng suy luận và phải làm tính thông thạo. Chương trình toán Tiểu học với 5 mạch kiến thức đan xen: – Số học và các phép tính; – Đại lượng và đo các đại lượng; – Các yếu tố hình học; – Một số yếu tố thống kê; – Tỉ lệ bản đồ và giải toán có lời văn. Trong 5 mạch kiến thức này được xây dựng theo hướng đồng tâm từ lớp 1 đến lớp 5 và được nâng dần mức độ khó ở các lớp cuối cấp. Đến lớp 5, Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
2
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 những kiến thức và kỹ năng toán học ở Tiểu học cần được bổ sung và hoàn thiện để chuẩn bị cho học sinh học bậc học trên. Việc dạy – học toán ở trường Tiểu học hiện nay nói chung, ở trường tôi đang dạy nói riêng kết quả còn thấp so với yêu cầu. Năng lực giải toán của học sinh còn nhiều hạn chế như: còn nhiều lúng túng khi tìm ra hướng giải, câu trả lời cho phép tính chưa chính xác, lựa chọn phép tính còn nhầm lẫn, tính toán chưa nhanh, chưa thành thạo, dẫn đến trình bày bài giải còn sai sót, kết quả học tập thấp. Điều này làm mất thời gian trong các giờ học và còn tạo cho học sinh tâm lý mỏi mệt, nhàm chán khi học toán. Những biểu hiện nói trên không phải vì học sinh không học được. Các nhà khoa học đã chứng minh rằng trẻ sinh ra có thần kinh bình thường đều có khả năng học tập và phát triển. Như vậy, những hạn chế trong giải toán của học sinh là do các em mắc phải những sai lầm về kiến thức và kỹ năng toán học, mà giáo viên chưa phát hiện ra những sai lầm dẫn đến sai sót trong giải toán của học sinh để tìm ra nguyên nhân và đưa ra biện pháp giúp học sinh khắc phục những sai lầm, thiếu sót đó. Bất kỳ thiếu sót nào của học sinh cũng có thể làm cho các em học kém đi nếu như giáo viên không chú ý giúp các em tự nhận ra và sửa chữa, khắc phục những sai lầm, thiếu sót. Trong 5 mạch kiến thức toán Tiểu học thì toán có lời văn là dạng toán học sinh gặp nhiều khó khăn nhất, bộc lộ nhiều nhất những sai lầm, thiếu sót trong suy luận và ứng dụng thực tế kiến thức toán học. Từ những yêu cầu và nhận thức nói trên, để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục, giúp học sinh hiểu sâu bản chất của vấn đề, học sinh có phương pháp suy luận logic thông qua cách trình bày lựa chọn phép tính đúng, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện, giúp các em hứng thú, say mê học toán, nâng cao chất lượng giờ dạy học toán, tôi chọn đề tài: ” Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5″.
Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
3
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN: Người ta thường nói học vấn của con người giống như một tòa nhà, trong đó học vấn của Tiểu học đóng vai trò nền móng của tòa nhà đó. Nhiệm vụ của giáo dục là phải xây dựng cái móng thật vững chắc để cho tòa nhà đứng vững. Muốn làm nên sự vững chắc đó không thể không nói đến cái vững chắc của môn Toán, nhất là giải toán có lời văn ở Tiểu học là quan trọng và cần thiết vì: – Dạy toán ở Tiểu học nhằm giúp cho học sinh vận dụng những kiến thức toán học vào các tình huống thực tiễn đa dạng, phong phú, những vấn đề thường gặp trong cuộc sống. – Việc hướng dẫn học sinh giải toán là hướng dẫn học sinh kết hợp học với hành, áp dụng kiến thức đã học vào đời sống thực tiễn, giúp học sinh hình thành và rèn luyện kỹ năng thực hành cần thiết, vận dụng kỹ năng đó vào cuộc sống. – Giải toán có lời văn góp phần quan trọng trong việc xây dựng cho học sinh những cơ sở ban đầu của lòng yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, thế giới quan duy vật biện chứng. Việc giải toán với những đề tài thích hợp còn giới thiệu cho học sinh những thành tựu trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta và các nước anh em, trong cuộc sống bảo vệ hòa bình của Leâ Thò Hoàng Trí Tröôøng tieåu hoïc Ba 4 Ñoäng
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 nhân dân thế giới. Đồng thời giải toán có lời văn còn góp phần giáo dục học sinh bảo vệ môi trường, phát triển dân số có kế hoạch. – Hoạt động trí tuệ có trong việc giải toán còn góp phần hình thành nên những đức tính cần thiết của con người lao động mới như: tinh thần vượt khó, ý chí vươn lên, đức tính cẩn thận, kiên trì, chu đáo, thói quen làm việc có kế hoạch, xem xét có căn cứ. Biết tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, có óc sáng tạo, óc độc lập suy nghĩ. Những cơ sở nói trên xuất phát từ: + Ý nghĩa, tầm quan trọng của môn toán Tiểu học nói chung, môn toán lớp 5 nói riêng; + Mục tiêu, nhiệm vụ của môn toán Tiểu học nói chung, môn toán lớp 5 nói riêng; + Nội dung chương trình môn toán Tiểu học nói chung, môn toán lớp 5 nói riêng; + Phương pháp, hình thức tổ chức dạy học môn toán Tiểu học nói chung, môn toán lớp 5 nói riêng; + Chuẩn kiến thức kỹ năng, cách kiểm tra đánh giá môn toán Tiểu học nói chung, môn toán lớp 5 nói riêng. 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN: Giáo dục hiện nay đang thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng lấy học sinh làm trung tâm. Vì vậy, việc dạy – học toán của giáo viên và học sinh hiện nay cũng được áp dụng phương pháp nêu vấn đề để rồi học sinh tự tìm hướng giải quyết. Song, học sinh lại rất lúng túng với phương pháp này vì các em không biết tìm “khóa” để “mở” bài toán (nhất là với các bài toán hợp). Nếu giáo viên giảng giải nhiều thì tiết học trở nên nặng nề, nhàm chán cũng đồng nghĩa với việc không đổi mới phương pháp, đồng thời tạo cho học sinh thói quen ỷ lại, trông chờ vào giáo viên, không phát huy được tính tích cực trong học tập của học sinh. Bản thân các em không biết trình bày bài giải thế nào hoặc không xác định được dạng toán điển hình để có Leâ Thò Hoàng Trí Tröôøng tieåu hoïc Ba 5 Ñoäng
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 những bước tính phù hợp. Đó cũng là những khó khăn khi dạy giải toán có lời văn ở Tiểu học. Với giáo viên, học sinh Trường Tiểu học Ba Động thì những khó khăn trên càng được nhân lên gấp bội vì Ba Động là một xã miền núi, đời sống người dân còn nhiều khó khăn. Cha mẹ còn mãi lo chuyện mưu sinh, ít quan tâm đến việc học của con mình nên chưa tạo điều kiện đúng mức cho việc đến trường của các em. Một số cha mẹ đi làm ăn ở xa gửi con cái cho ông bà ở nhà nên việc gặp gỡ giáo viên để trao đổi, phối hợp giáo dục các em thì hiếm khi. Bản thân học sinh tiếp thu chậm, đặc biệt với môn Toán thì các em ít hứng thú để học và còn nhiều hạn chế khi giải toán (nhất là giải toán có lời văn). Kết quả học tập của học sinh thấp so với yêu cầu. 3. ĐỐI TƯỢNG, MỤC ĐÍCH, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 3.1 Đối tượng – Giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Toán ở trường Tiểu học. – Học sinh Tiểu học, chủ yếu là học sinh lớp 5. 3.2 Mục đích Mục đích của việc nghiên cứu là để điều tra những sai lầm, hạn chế phổ biến của học sinh lớp 5 khi giải toán có lời văn. Phân tích các nguyên nhân mắc sai lầm, thiếu sót của học sinh, từ đó đề xuất các biện pháp sư phạm với các tình huống điển hình giúp học sinh sửa chữa sai lầm, thiếu sót, khắc phục hạn chế, để các em giải toán nhanh, thành thạo, hứng thú khi học toán, nâng cao kết quả học tập. Giúp giáo viên có những tiết dạy giải toán nhẹ nhàng mà hiệu quả. 3.3 Phương pháp nghiên cứu: – Phương pháp lý luận: Sưu tầm tài liệu, đọc tài liệu, tra cứu thông tin; – Phương pháp điều tra, phân tích, tổng hợp: Dự giờ đồng nghiệp, giảng dạy thực tế, phân tích kết quả học tập của học sinh; – Phương pháp thực nghiệm: Đưa biện pháp đề xuất vào giảng dạy trực tiếp tại lớp 5 Trường Tiểu học Ba Động. Leâ Thò Hoàng Trí 6 Ñoäng
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 4. PHẠM VI VÀ GIỚI HẠN: 4.1 Phạm vi: – Giáo viên và học sinh Trường Tiểu học Ba Động, đặc biệt là học sinh lớp 5 năm học 2011- 2012 và năm học 2012-2013 do tôi chủ nhiệm và giảng dạy. 4.2 Giới hạn: – Tìm hiểu nguyên nhân, thực trạng việc dạy và học môn Toán nói chung, giải toán có lời văn ở lớp 5 nói riêng; – Xây dựng một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 rèn kỹ năng giải toán có lời văn; – Những kinh nghiệm của bản thân trong công tác giảng dạy. 5. TIỂU KẾT: – Việc giải toán có lời văn giúp học sinh củng cố, vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh giáo viên có thể dễ dàng phát hiện ra những ưu điểm hoặc những sai lầm, thiếu sót của các em về kiến thức, kỹ năng, về tư duy toán học để có biện pháp giúp các em sửa chữa sai lầm, khắc phục thiếu sót nhằm nâng cao chất lượng học toán nói riêng, nâng cao kết quả học tập nói chung.
Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
7
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 CHƯƠNG 2
CÁC BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN
Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
8
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 Năm học
Số em chưa biết giải toán có lời văn Số lượng
Tỉ lệ %
2011-2012
27
8
29,6
9
33,3
10
37,1
2012-2013
25
8
32
9
36
8
32
* Qua thống kê phân loại cho thấy số em giải toán có lời văn chậm, lúng túng trong việc chọn câu lời giải hay khó khăn khi hình thành phép tính chiếm tỉ lệ khá cao, đặc biệt học sinh chưa biết giải toán có lời văn chiếm gần 40% số học sinh trong lớp. Do các nguyên nhân: – Tư duy của học sinh thiếu linh hoạt, nắm kiến thức bằng việc tiếp thu qua mẫu, nhiều khi không đầy đủ. Suy luận thường máy móc hay dựa vào tương tự, căn cứ vào các dấu hiệu bên ngoài. Học sinh có những kết luận thường không căn cứ; – Khi giải toán trong một chừng mực nào đó các em có thể giải được một bài toán theo hình thức “bắt chước”, theo mẫu đã có sẵn nhưng thường sai lầm khi tính toán. Các em giải bài tập bằng cách tái hiện có khi không đầy đủ những cách giải đã luyện tập máy móc nhiều lần nhưng khi hỏi về lý lẽ thì học sinh không nói được; – Học sinh sử dụng ngôn ngữ toán học (thuật ngữ – ký hiệu) còn lúng túng, nhiều chỗ còn lẫn lộn, khi giải toán các em thường vội vàng, hấp tấp không chịu đọc kỹ đề toán. Trong khi phân tích đề không chú ý đến những thuật ngữ toán học để tìm ra “chìa khóa” mở bài toán. Học sinh thường nhầm lẫn giữa câu hỏi và lời giải. Còn nhiều học sinh không xác định được đơn vị kèm theo kết quả tính; – Biểu hiện bề ngoài là thái độ thờ ơ, học tập thiếu tự tin, ngay khi giải bài toán đúng nhưng giáo viên hỏi cũng ngập ngừng không trả lời được. 2.2 Thực trạng việc dạy giải toán có lời văn hiện nay: Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
9
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 – Nhiều giáo viên việc tiếp cận đổi mới phương pháp trong giảng dạy còn hạn chế. Trong tiết dạy giáo viên chỉ quan tâm đến chất lượng mũi nhọn (chú ý vài em trong lớp) để có học sinh giỏi theo chỉ tiêu của nhà trường, lấy đó làm thành tích cá nhân mà quên nghĩ đến chất lượng đại trà của cả lớp. – Phần lớn giáo viên truyền thụ kiến thức một chiều, chuyển tải nội dung kiến thức một cách máy móc, áp đặt. Giáo viên chưa chú trọng tới việc tạo điều kiện cho học sinh tham gia xây dựng bài mới để chủ động nắm bắt kiến thức vì sợ mất nhiều thời gian. Trong giải toán có lời văn, với những bài toán hợp có từ 2 bước giải trở lên, giáo viên thường quan tâm đến học sinh khá giỏi, mà quên nghĩ là học sinh yếu đang cần sự giúp đỡ của giáo viên. Khi chấm, chữa bài, giáo viên thường đánh giá chung chung bài làm đúng – sai gắn liền với các điểm số mà chưa chỉ rõ chỗ sai lầm, thiếu sót để học sinh khắc phục. Học sinh không hiểu bài, giáo viên nói nhiều, có khi còn làm thay cho học sinh. Giáo viên chưa chú ý hình thành các kỹ năng toán học như kỹ năng phân tích đề, tóm tắt đề bài, kỹ năng nhận diện dạng toán điển hình….cho học sinh. 2.3 Những tác động của phụ huynh: Trình độ dân trí thấp. Kinh tế còn khó khăn. Cha mẹ thiếu sự quan tâm đến việc học của con cái. Một số phụ huynh gặp khó khăn trong việc hướng dẫn con em mình học ở nhà. * Qua tìm hiểu nguyên nhân, thực trạng nêu trên, tôi đề ra những giải pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng dạy – học giải toán có lời văn ở lớp 5. 3. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ THỰC HIỆN 3.1 Nhận thức vấn đề 3.1.1 Quan niệm về bài toán: Bài toán là một nội dung có vấn đề, có tình huống cần giải quyết để ra kết quả. Khi giải quyết vấn đề đó ta phải vận dụng tri thức và kinh nghiệm sống để tìm ra lời giải. Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
10
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 – Loại bài: Có 3 loại: Toán đơn, toán hợp, toán áp dụng qui tắc – công thức. – Đề bài toán gồm 3 yếu tố : Dữ kiện, ẩn số và các điều kiện. 3.1.2 Qui trình giải toán có lời văn: Gồm 4 bước – Bước 1: Nghiên cứu đề, giải nghĩa từ lạ, câu lạ, tóm tắt đề. – Bước 2: Phân tích, tổng hợp, lập kế hoạch giải. – Bước 3: Giải và trình bày bài giải. – Bước 4: Đánh giá lại cách giải, thử lại, tìm cách giải khác. 3.1.3 Tư duy giải toán: gồm 5 thao tác tư duy – Tư duy 1: Xác định yêu cầu bài toán; – Tư duy 2: Phân tích đề toán theo trình tự nhất định; – Tư duy 3: Mô tả chính xác từng bước giải và cách thực hiện; – Tư duy 4: So sánh cách giải của loại bài toán này rút ra cách giải hợp lý nhất; – Tư duy 5: Khái quát hóa phương pháp để giải các bài toán cùng dạng. 3.1.4 Nắm chương trình – Nội dung dạy học giải toán có lời văn được sắp xếp hợp lý, đan xen giữa các mạch kiến thức: số học, hình học, đại lượng đo đại lượng. Chương trình được xây dựng theo định hướng chủ yếu giúp học sinh rèn phương pháp giải toán lớp 5 theo xu hướng giảm tính phức tạp và độ khó quá mức với học sinh đồng thời hạn chế các bài toán mang tính đánh đố hoặc áp dụng cách giải khác. Khi giải loại bài này giáo viên cần có cách giải linh hoạt, không áp đặt mà để học sinh lựa chọn cách giải; – Một số ít bài toán mang tính phát triển đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ độc lập để giải; – Nội dung các bài toán có tính cập nhật kiến thức gắn với đời sống xung quanh của học sinh, gắn liền với các tình huống cần giải quyết trong thực tiễn. 3.2 Biện pháp Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
11
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 3.2.1 Lựa chọn phương pháp phù hợp với đặc trưng của bộ môn. Phương pháp dạy học đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định hiệu quả giờ dạy. Đổi mới phương pháp dạy học toán đòi hỏi người giáo viên phải biết lựa chọn các phương pháp phù hợp với đặc trưng của môn Toán. Tôi thường chọn các phương pháp sau: * Phương pháp trực quan Sử dụng phương pháp này giúp học sinh có chỗ dựa cho hoạt động tư duy, giúp trẻ phát triển tư duy trừu tượng đồng thời có tác dụng bổ sung hiểu biết cho các em. Với toán có lời văn ở lớp 5 giáo viên có thể cho học sinh quan sát mô hình, sơ đồ để học sinh có cơ sở giải bài toán. * Phương pháp thực hành luyện tập Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở các tiết luyện tập để học sinh thực hành luyện tập kiến thức. Trong quá trình học sinh luyện tập giáo viên có thể phối hợp với phương pháp gợi mở – vấn đáp – giảng giải – minh họa… * Phương pháp gợi mở- vấn đáp Đây là phương pháp cần thiết vì nó phù hợp với học sinh Tiểu học. Phương pháp này rèn cho học sinh cách nghĩ, cách diễn đạt bằng lời, tạo niềm tin và khả năng học tập của từng em. * Phương pháp giảng giải minh họa Giáo viên chỉ sử dụng phương pháp này khi cần giảng giải minh họa. Giáo viên nên nói gọn, rõ và kết hợp với hoạt động thực hành của học sinh (Ví dụ bằng hình vẽ, mô hình, vật thật) để học sinh phối hợp nghe – nhìn và làm. * Phương pháp sơ đồ đoạn thẳng Khi sử dụng phương pháp này giáo viên phải chọn độ dài các đoạn thẳng một cách thích hợp (có thể dùng màu riêng cho từng đoạn thẳng), để học sinh dễ dàng thấy được mối liên hệ phụ thuộc giữa các đại lượng, tạo ra hình ảnh cụ thể để giúp học sinh suy nghĩ, tìm tòi giải toán. Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
12
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 3.2.2 Đa dạng hình thức dạy- học toán Việc phối hợp nhiều hình thức dạy – học toán trong một tiết dạy – học toán có tác dụng kích thích hứng thú học tập của học sinh. Giáo viên có thể chọn các hình thức dạy – học toán như: * Học cá nhân Với những bài toán đơn, vận dụng công thức, qui tắc hoặc thực hành kỹ năng tính toán giáo viên có thể áp dụng hình thức học cá nhân (trên phiếu hoặc trong vở bài tập). Ví dụ : Bài 3 trang 56 Toán 5 Sau khi học phép nhân một số thập phân với một số tự nhiên tôi tổ chức cho học sinh làm bài cá nhân để giải bài tập này. Một ô tô mỗi giờ đi được 42,6 km. Hỏi trong 4 giờ ô tô đó đi được bao nhiêu ki- lô- mét? * Học nhóm (nhóm đôi, nhóm 4) Với những bài toán hợp, có nhiều cách giải đòi hỏi học sinh phải tư duy logic, lựa chọn cách giải tôi có thể tổ chức cho học sinh làm bài theo nhóm để huy động vốn hiểu biết của nhiều em trong việc lựa chọn cách giải hay, dễ hiểu đồng thời giúp học sinh trong nhóm có tính tương tác lẫn nhau. Ví dụ: Bài 4, trang 62, toán 5 Mua 4 m vải phải trả 60.000 đồng. Hỏi mua 6,8 m vải cùng loại phải trả nhiều hơn bao nhiêu tiền? * Trò chơi, giải câu đố. Hình thức này thường sử dụng khi bồi dưỡng học sinh giỏi. Với những bài toán vui rèn tính toán nhanh, phát triển trí thông minh, cách giải toán linh hoạt, tôi tổ chức dạy học dưới dạng trò chơi, giải câu đố. Ví dụ: (Bài toán ghép hình) Hai hình chữ thập cắt đôi Trong nháy mắt ghép xong rồi hình vuông Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
13
Tröôøng tieåu hoïc Ba
14
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 Bài giải Chiều dài của hình chữ nhật là: 16,34 + 8,32 = 24,66 (m) Chu vi của hình chữ nhật là: (16,34 + 24,66) x 2 = 82 (m) Đáp số : 82 m + Các thành phần (16,34 và 8,32) trong phép tính giải (1) chính là dữ kiện của bài toán. Dữ kiện bài toán chi phối thành phần phép tính (1); + Dấu (+) trong phép tính (1) biểu thị mối quan hệ (hơn) hơn nhau một số đơn vị trong đầu bài. Do đó điều kiện trong bài toán chi phối cho việc chọn dấu phép tính (1); + Kết quả 24,66 m vừa là cái phải tìm trung gian trong bước giải (1) vừa là dữ kiện mới bổ sung của bước giải (2); + Số 16,34 trong bước giải (2) là dữ kiện của bài toán; + Số 2 và các dấu (+), (x) trong bước giải (2) thể hiện cách tính chu vi hình chữ nhật theo công thức. Có thể xem đây là điều kiện bắt buộc khi giải loại bài này; + Kết quả của phép tính (2) là cái phải tìm cuối cùng (hay ẩn số). Do đó có thể nêu lên một cách tóm tắt là: a) Các dữ kiện (kể cả dữ kiện mới bổ sung sau mỗi phép tính giải) của bài toán chi phối cho việc chọn (dấu) phép tính giải. b) Các điều kiện của bài toán chi phối cho việc chọn “dấu” phép tính giải. c) Những cái phải tìm là kết quả phép tính giải (tức là bao gồm những cái trung gian và cái phải tìm cuối cùng “ẩn số”). * Tóm lại: Việc giúp học sinh thấu hiểu 3 thành phần của bài toán sẽ giúp cho học sinh lựa chọn các phép tính để giải bài toán thuận tiện hơn.
Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
15
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 3.2.4 Hình thành thói quen tìm hiểu nghĩa các thuật ngữ, từ ngữ lạ có trong đề bài. Để lựa chọn được phép tính đúng, lời giải phù hợp thì học sinh phải thông hiểu đề, nghĩa là phải hiểu tất cả các từ ngữ có trong đề bài từ đó xác định 3 thành phần của bài toán được đề cập ở biện pháp trên. Nhưng trong thực tế, các đề toán có lời văn ở lớp 5 được nâng dần mức độ khó kèm theo sự xuất hiện của các từ ngữ lạ gắn với đời sống thực tiễn mà học sinh chưa được làm quen. Học sinh sẽ lờ đi những từ này mà chọn cách giải sai hoặc loay hoay tìm hiểu nghĩa từ làm chi phối sự tập trung giải toán. Với những trường hợp như vậy, giáo viên cần đặt câu hỏi vấn đáp giúp học sinh tìm hiểu nghĩa từ lạ trước khi tìm hiểu đề. Ví dụ: (Bài 2 trang 21 Toán 5) Một gia đình gồm 3 người (bố, mẹ và một con). Bình quân thu nhập hằng tháng là 800.000 đồng mỗi người. Nếu gia đình đó có thêm một con nữa mà tổng thu nhập của gia đình không thay đổi thì bình quân thu nhập hằng tháng của mỗi người bị giảm đi bao nhiêu tiền? – Hai cụm từ lạ học sinh khó hiểu ở đề bài này là: “Tổng thu nhập” và “Bình quân thu nhập”. * Giải nghĩa cụm từ: Tổng thu nhập – Tôi đặt câu hỏi cho học sinh: Em hiểu như thế nào là tổng thu nhập? – Tôi lấy ví dụ bằng cách yêu cầu học sinh nêu các khoản thu nhập của gia đình em trong một tháng. Sau khi học sinh nêu, tôi kết luận: Các khoản thu nhập đó gộp lại chính là tổng thu nhập của gia đình em trong 1 tháng. * Giải nghĩa cụm từ: Bình quân thu nhập – Tôi hỏi: Bình quân thu nhập là gì? – Tôi cung cấp nghĩa cho học sinh: Bình quân thu nhập là thu nhập trung bình của mỗi người trong gia đình được tính từ tổng thu nhập của gia đình. Công thức tính: Bình quân thu nhập = Tổng thu nhập : Tổng số người Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
16
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 Từ đó học sinh có thể tính được bình quân thu nhập của mỗi người khi gia đình có thêm một con và giải được bài toán. 3.2.5 Tổ chức thực hiện các bước giải toán, hình thành cho học sinh thói quen phân tích, tổng hợp khi giải toán. Vội vàng, hấp tấp, không chịu đọc kỹ bài toán, phân tích tổng hợp đề hời hợt thiếu kinh nghiệm cũng là một trong những nguyên nhân làm cho học sinh gặp khó khăn khi giải toán. Để khắc phục hạn chế này, giáo viên nên tổ chức cho học sinh giải bài toán theo 4 bước nhằm hình thành thói quen phân tích, tổng hợp đề khi giải toán, rèn kỹ năng giải toán cho học sinh. – Bước 1: Tìm hiểu kỹ đề toán, tìm hiểu nghĩa của từ, cụm từ quan trọng. Ở bước này giáo viên dùng 2 câu hỏi để dẫn dắt: + Bài toán cho biết gì? + Bài toán hỏi gì? – Bước 2: Thiết lập mối quan hệ giữa cái đã cho với cái cần tìm. Tóm tắt bài toán (Tóm tắt đề bằng ngôn ngữ, ký hiệu ngắn gọn hoặc bằng sơ đồ đoạn thẳng hoặc bằng lời). Lập kế hoạch giải bài toán (Trên cơ sở phân tích, thiết lập trình tự giải bài toán). – Bước 3: Thực hiện cách giải và trình bày bài giải theo kế hoạch đã lập để giải bài toán bằng các thao tác: + Thực hiện phép tính đã xác định. + Viết câu trả lời. + Viết đáp số. Sau mỗi bước giải cần kiểm tra phép tính giải đúng chưa. Viết câu lời giải phù hợp chưa. – Bước 4: Kiểm tra đối chiếu, tìm cách giải khác. + Giải xong bài toán phải thử xem đáp số tìm ra có thể trả lời câu hỏi của bài toán chưa? Có phù hợp với điều kiện của bài toán không? + Tìm cách giải khác cho bài toán. Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
17
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 Ví dụ: (Bài 3 trang 62 toán 5) Mua 5 kg đường phải trả 38.500 đồng. Hỏi mua 3,5 kg đường cùng loại phải trả ít hơn bao nhiêu tiền? – Bước 1: Tìm hiểu đề + Tôi gọi học sinh đọc đề toán. + Hỏi: Bài toán cho biết gì? (Bài toán cho biết mua 5 kg đường phải trả 38.500 đồng). + Hỏi: Bài toán hỏi gì? (Bài toán hỏi mua 3,5 kg đường cùng loại phải trả ít hơn bao nhiêu tiền). + Hỏi: Giá tiền 1 kg đường không đổi. Khi giảm số ki-lô-gam đường cần mua thì số tiền mua đường sẽ thay đổi thế nào? (Số tiền mua đường cũng giảm). + Hỏi: Bài toán thuộc dạng toán nào? (Dạng toán quan hệ tỷ lệ). – Bước 2: Thiết lập mối quan hệ giữa cái đã cho với cái cần tìm. Tóm tắt bài toán. Tóm tắt đề: 5 kg đường: 38.500 đồng 3,5 kg đường: Trả ít hơn 5 kg đường ….. đồng? + Hỏi: Muốn biết mua 3,5 kg đường cùng loại phải trả ít hơn mua 5 kg đường bao nhiêu tiền em phải biết gì? (Phải biết mua 3,5 kg đường phải trả bao nhiêu tiền). + Hỏi: Muốn biết mua 3,5 kg đường phải trả bao nhiêu tiền em phải biết gì? (Phải biết giá tiền của một ki-lô-gam đường). + Hỏi: Làm thế nào để tính được giá tiền của 1 kg đường? (Lấy giá tiền của 5 kg đường chia cho 5). + Em hãy nêu các bước giải bài toán. (Học sinh nêu) * Tính giá tiền 1 kg đường * Tính giá tiền 3,5 kg đường Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
18
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 * Tính số tiền mua 3,5 kg đường phải trả ít hơn mua 5 kg đường. – Bước 3: Giải bài toán Bài giải Giá tiền của 1 kg đường là: 38.500 : 5 = 7700 (đồng) Mua 3,5 kg đường phải trả số tiền là: 7.700 x 3,5 = 26.950 (đồng) Mua 3,5 kg đường cùng loại phải trả ít hơn mua 5kg đường số tiền là: 38.500 – 26.900 = 11.550 (đồng) Đáp số: 11.550 đồng – Bước 4: * Kiểm tra cách giải, kết quả. Đối chiếu xem đáp số có trả lời đúng câu hỏi của bài toán không. * Tìm cách giải khác Bài giải Giá tiền của 1 kg đường là: 38.500 : 5 = 7 700 (đồng) 3,5 kg đường ít hơn 5 kg đường là: 5 – 3,5 = 1,5 (kg) Mua 3,5 kg đường cùng loại phải trả ít hơn mua 5kg đường số tiền là: 7 700 x 1,5 = 11 550 (đồng) Đáp số: 11 550 đồng 3.2.6 Hình thành kỹ năng xác định các dạng toán điển hình. Đối với toán có lời văn ở lớp 5 chủ yếu là các bài toán hợp, giải bài toán hợp cũng có nghĩa là giải quyết các bài toán đơn. Các bài toán hợp trong chương trình toán lớp 5 bao gồm 2 nhóm chính sau: – Nhóm 1: Các bài toán hợp mà quá trình giải không theo một phương pháp thống nhất cho các bài toán đó. Leâ Thò Hoàng Trí 19 Ñoäng
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 – Nhóm 2: Các bài toán điển hình là các bài toán mà trong quá trình giải có phương pháp riêng cho từng dạng bài toán. Có các dạng toán điển hình sau: + Tìm số trung bình cộng; + Tìm 2 số khi biết tổng và hiệu của 2 số đó; + Tìm 2 số khi biết tổng và tỉ của 2 số đó; + Tìm 2 số khi biết hiệu và tỉ của 2 số đó; + Bài toán về quan hệ tỉ lệ. Các dạng toán khác: + Bài toán về tỉ số phần trăm; + Bài toán về chuyển động đều; + Bài toán có nội dung hình học (Chu vi, diện tích, thể tích). Người giáo viên phải nắm vững các dạng toán nói trên để trong quá trình hướng dẫn học sinh giải toán, giáo viên giúp các em trước hết phải xác định được dạng toán đã học để dễ dàng chọn cách giải phù hợp cho bài toán. Ví dụ 1: (Bài 2 trang 19 toán 5) Bạn Hà mua 2 tá bút chì hết 30.000 đồng. Hỏi bạn Mai muốn mua 8 cái bút chì như thế thì phải trả người bán hàng bao nhiêu tiền? Hướng dẫn: + Hỏi: Bài toán cho biết gì? (Cho biết mua 2 tá bút chì hết 30.000 đồng). + Hỏi: Bài toán hỏi gì? (Hỏi mua 8 cái bút chì như thế thì phải trả bao nhiêu tiền?) + Hỏi: Giá tiền 1 bút chì không đổi, số bút chì cần mua giảm xuống thì số tiền phải trả thay đổi như thế nào? (Số tiền phải trả sẽ giảm xuống). + Hỏi: Bài toán thuộc dạng toán gì? (Dạng toán quan hệ tỷ lệ). + Hỏi: Có mấy cách giải bài toán về quan hệ tỷ lệ? Là những cách nào? (Có hai cách giải bài toán về quan hệ tỉ lệ, cách rút về đơn vị và cách tìm tỉ số). Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
20
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Cập nhật thông tin chi tiết về Skkn Tạo Hứng Thú Học Tập Cho Học Sinh Thông Qua Khai Thác Một Bài Toán Hình Học 7 trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!