Xu Hướng 11/2023 # Tầm Nhìn Chiến Lược Và Sự Lãnh Đạo, Chỉ Đạo Của Đảng Đối Với Quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam Trong Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ, Cứu Nước # Top 17 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Tầm Nhìn Chiến Lược Và Sự Lãnh Đạo, Chỉ Đạo Của Đảng Đối Với Quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam Trong Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ, Cứu Nước được cập nhật mới nhất tháng 11 năm 2023 trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

1/8/2023 7:01:23 AM

Trước yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 (01/1959) và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960), cách mạng miền Nam đã chuyển hướng chiến lược từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, lấy đấu tranh vũ trang là quyết định. Theo đó, các lực lượng cách mạng chủ động tiến công địch trên nhiều mặt trận, với nhiều quy mô, hình thức. Từ thực tiễn cách mạng miền Nam, lực lượng vũ trang chính quy của ta đã tập kết ra miền Bắc sau Hiệp định Giơnevơ (7/1954); Trung ương Đảng chủ trương: “Đi đôi với xây dựng lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị, phải ra sức xây dựng lực lượng vũ trang bao gồm dân quân, du kích ở thôn, xã, bộ đội địa phương tỉnh, huyện đến bộ đội chủ lực khu, miền, đồng thời phải đẩy mạnh đấu tranh quân sự của ba thứ quân để giúp sức đắc lực cho đấu tranh chính trị”1; trong đó, chú trọng xây dựng các đơn vị vũ trang tập trung.

Thực hiện chủ trương đó, tháng 01/1961, Tổng Quân ủy quyết định thành lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam, trong đó nêu rõ: “Quân giải phóng miền Nam Việt Nam là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng sáng lập và xây dựng, giáo dục và lãnh đạo,… Quân giải phóng miền Nam Việt Nam kế tục truyền thống anh dũng, tinh thần quật khởi và đoàn kết chiến đấu của nhân dân Việt Nam anh hùng, kế tục truyền thống vẻ vang phục vụ nhân dân của Quân đội nhân dân Việt Nam”2. Cùng với đó, Trung ương Đảng quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam để lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng miền Nam; củng cố, kiện toàn các tổ chức: Quân ủy Miền, Bộ Tư lệnh Miền, Bộ Tư lệnh các khu; tổ chức lại các chiến trường theo yêu cầu của cuộc kháng chiến; nghiên cứu, phát triển nghệ thuật đánh địch; vừa xây dựng Quân giải phóng, vừa chiến đấu, vừa lao động sản xuất, v.v.. Đồng thời, tích cực củng cố, mở rộng các căn cứ địa cách mạng từ khu Dương Minh Châu ra địa bàn miền Đông Nam Bộ, xây dựng hậu phương tại chỗ; mở rộng hành lang vận chuyển Bắc – Nam cả trên bộ và trên biển; tăng cường cán bộ chỉ huy, chính trị, hậu cần và một số đơn vị chiến đấu cấp đại đội, tiểu đoàn, nâng dần quy mô, khối lượng tiếp tế, vận chuyển vũ khí, phương tiện kỹ thuật, cung cấp tài chính từ miền Bắc vào miền Nam.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; trực tiếp là Trung ương Cục miền Nam, Bộ Chỉ huy Miền, Quân giải phóng đã không ngừng lớn mạnh, trưởng thành về mọi mặt, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng tiến hành thắng lợi hàng loạt trận đánh, chiến dịch ở các quy mô, hình thức, như: Ấp Bắc, Núi Thành; các chiến dịch: Ba Gia, Bình Giã, Đồng Xoài, Mậu Thân 1968, Xuân – Hè 1972, Đường 14 – Phước Long, Tây Nguyên, Trị Thiên – Huế, Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Tiêu hao, tiêu diệt, phá hủy nhiều lực lượng, phương tiện chiến đấu của địch, giải phóng nhiều địa bàn, tập trung vào khu vực Nam Trung Bộ, Nam Bộ và Nam Tây Nguyên, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, hiệu quả của Đảng đối với cách mạng miền Nam nói chung, Quân giải phóng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói riêng để lại nhiều bài học quý, mang tầm chiến lược; nổi bật là:

Một là, nhận định, đánh giá, dự báo chính xác tình hình, diễn biến chiến tranh làm cơ sở chỉ đạo chuyển hướng chiến lược cách mạng trong từng giai đoạn và cả cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Để đối phó với chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, trên cơ sở thế và lực mới do cao trào đồng khởi tạo ra, Bộ Chính trị nhận định: “Trên thế giới, phong trào giải phóng dân tộc đang lên, nhất là ở châu Á, châu Phi và Mỹ latinh, khiến cho Mỹ phải phân tán lực lượng đối phó nhiều nơi; phe xã hội chủ nghĩa lớn mạnh về mọi mặt nhất là Liên Xô, Trung Quốc”3. Điều đó, tạo động lực mạnh mẽ cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới: “Lương tri loài người đã thức tỉnh trước họa xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới”4. Đối với nước ta, “Thời kỳ tạm ổn của chế độ Mỹ – Diệm đã qua, thời kỳ khủng hoảng liên tiếp, suy sụp nghiêm trọng bắt đầu, các hình thái du kích cục bộ, khởi nghĩa từng phần đã xuất hiện mở đầu cho cao trào cách mạng ngày càng lớn”5. Xét về mặt chiến lược, tuy ta đang ở thế chủ động, Mỹ và tay sai đang ở thế bị động, nhưng Đảng ta nhận định: “Chiến tranh sẽ mở rộng; cuộc chiến đấu sẽ ác liệt, phức tạp; đấu tranh chính trị và vũ trang sẽ diễn ra đồng thời, nhưng từ đây đấu tranh vũ trang đóng vai trò ngày càng quyết định”6. Trên cơ sở đó, Đảng chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng từ đấu tranh chính trị sang kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, lấy đấu tranh vũ trang là quyết định.

Thực tế cho thấy, khi Mỹ đưa quân viễn chinh vào miền Nam thực hiện hai cuộc tiến công chiến lược mùa khô (1965 – 1966) và (1966 – 1967), ta đánh giá lực lượng địch tuy lớn, nhưng về tư tưởng, tổ chức có vấn đề vì chiến lược “chiến tranh đặc biệt” vừa thất bại, từ đó ta phát động cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), đánh đòn bất ngờ, tiêu hao, tiêu diệt lực lượng lớn quân địch, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, thay đổi chiến lược. Năm 1971, với sự yểm trợ của không quân và pháo binh Mỹ, quân ngụy tiến đánh Đường 9 – Nam Lào và biên giới Campuchia. Quân ngụy đông, lực lượng dự bị chiến lược lớn, nhưng tinh thần hoang mang do sức ép của ta và việc quân Mỹ đang từng bước rút khỏi Việt Nam theo chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Trước tình hình đó, ta đã hạ quyết tâm tiến hành cuộc phản công chiến lược, đánh bại cuộc hành quân “Lam Sơn 719” và cuộc hành quân “Toàn Thắng 1-71 NB”.

Trên cơ sở nắm chắc “quy luật leo thang chiến tranh” của đế quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn Bộ đội Phòng không – Không quân: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến trước mọi tình huống càng sớm càng tốt, để có thời gian mà suy nghĩ, chuẩn bị…”7. Thực hiện lời dạy của Bác, ta chuẩn bị kỹ lưỡng các phương án đánh địch bảo vệ Hà Nội và các vùng phụ cận. Khi Mỹ tiến hành cuộc tập kích đường không bằng máy bay ném bom chiến lược B-52 (chiến dịch Linebacker II) thì Hà Nội đã sẵn sàng đánh trả, làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không” (12/1972) vang dội, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari (01/1973), rút quân về nước. Đặc biệt, trước khi quyết định thực hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, Trung ương Đảng đã phân tích, đánh giá tình hình thế giới, khu vực, chú trọng mối quan hệ chủ – tớ (Mỹ – ngụy) và thống nhất nhận định: Mỹ không có khả năng can thiệp trở lại để cứu nguy cho quân ngụy, nên ta quyết tâm thực hiện ba đòn tiến công chiến lược: Đập tan ngụy quân, đánh sập ngụy quyền, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Cùng với nhận định, đánh giá chính xác những hoạt động tác chiến chiến lược có tính quy luật của địch, dự báo được tiến trình chiến tranh, Trung ương còn phân tích, nắm chắc thế và lực của ta, tình hình địa hình, thời tiết,… trên cơ sở đó chỉ đạo chuyển hướng đấu tranh cách mạng, hạ quyết tâm, điều chỉnh ý định tác chiến chiến lược nhằm hạn chế chỗ mạnh, khoét sâu chỗ yếu của địch; đồng thời, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả lực lượng đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang, cách đánh sở trường của lực lượng vũ trang và ưu thế vũ khí, trang bị kỹ thuật, giành thắng lợi quyết định trên từng chiến trường, kết thúc chiến tranh.

Hai là, chủ động, tích cực xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang; mở rộng căn cứ địa cách mạng, hậu phương kháng chiến, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.

Đầu năm 1961, trong thư gửi Xứ ủy Nam Bộ, đồng chí Lê Duẩn viết: “Phải gắn liền đấu tranh với xây dựng lực lượng chính trị, quân sự của ta. Đi sâu củng cố các tổ chức đảng, đoàn, các đội ngũ quần chúng cách mạng, tăng cường giáo dục chính trị, nâng cao ý chí chiến đấu và lòng tin vào thắng lợi cuối cùng”8. Đảng ta chỉ đạo Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tích cực, chủ động tập hợp lực lượng, phát triển đảng viên, đoàn viên; đẩy mạnh củng cố, xây dựng hệ thống tổ chức đảng, đoàn thể; khẩn trương xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ), lực lượng thanh niên xung phong, biệt động Thành,… nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần, lực lượng, tầng lớp nhân dân đấu tranh toàn diện trên các lĩnh vực: quân sự, chính trị, ngoại giao, chống sự can thiệp, viện trợ của Mỹ và đồng minh đối với ngụy quyền Sài Gòn. Mặt trận chú trọng tổ chức vận động, giác ngộ nhân dân, lực lượng chính trị quần chúng tham gia lực lượng vũ trang ba thứ quân, trọng tâm vào các đội vũ trang tự vệ, dân quân du kích vừa sản xuất, vừa chiến đấu đánh địch mọi lúc, mọi nơi..v.v..  Khi đế quốc Mỹ tăng cường can thiệp vũ trang vào miền Nam, thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt” với thủ đoạn “dùng người Việt đánh người Việt”; thực hiện gom dân, lập “ấp chiến lược” hòng tách rời, cô lập nhân dân với Mặt trận, Ủy ban Trung ương lâm thời kêu gọi nhân dân miền Nam tập trung mọi nỗ lực, kiên quyết đánh thắng “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.

Ba là, lãnh đạo, chỉ đạo Quân giải phóng tiến hành các đòn tiến công quân sự giành thắng lợi quyết định trên toàn chiến trường miền Nam

Sau khi Quân giải phóng được thành lập, lực lượng vũ trang miền Nam nhanh chóng phát triển từ các đơn vị bộ đội địa phương, dân quân du kích, lên các tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn chủ lực; từ tác chiến du kích tiến lên tác chiến lớn bằng các đơn vị chính quy, từng bước nâng lên tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng; từ những trận đánh nhỏ có tính chất thăm dò, tiến tới đánh thắng những trận đánh, chiến dịch then chốt, then chốt quyết định, đập tan các chiến lược quân sự của Mỹ. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Cục miền Nam và Mặt trận Dân tộc giải phóng, Quân giải phóng đã phát huy vai trò nòng cốt, phối hợp chặt chẽ với các tầng lớp nhân dân miền Nam tiến hành nhiều hình thức đấu tranh bằng “hai chân”, “ba mũi”, “ba vùng”, kết hợp đấu tranh trên cả ba mặt trận: chính trị, quân sự và ngoại giao; kết hợp tiến công với nổi dậy, tổng khởi nghĩa, tổng tiến công,… tạo sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc đánh bại các chiến lược: “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh”, tiến lên đánh bại hoàn toàn chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.

Quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công của Đảng, Quân giải phóng vừa xây dựng, phát triển lực lượng tại chỗ, vừa tiếp nhận lực lượng, vật chất, hậu cần, kỹ thuật từ hậu phương lớn miền Bắc chi viện, đồng thời phát huy vai trò nòng cốt, xung kích tham gia chiến đấu trên toàn miền Nam. Tổ chức các trận đánh, chiến dịch quan trọng, tiêu hao, tiêu diệt, làm thiệt hại lớn lực lượng, phương tiện của Mỹ và quân đội Sài Gòn. Trong đó, nhiều trận do bộ đội địa phương tiến hành thắng lợi, có ý nghĩa chiến lược, đánh dấu bước trưởng thành nhiều mặt của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam, chứng tỏ khả năng đánh thắng chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” và khẳng định tinh thần dám đánh và dám thắng quân Mỹ của Quân giải phóng. Cùng với đó, ta tiến hành đợt hoạt động Đông Xuân 1964 – 1965 với thắng lợi của các chiến dịch: Ba Gia, Bình Giã, Đồng Xoài, An Lão đã thúc đẩy phong trào chiến tranh du kích toàn miền Nam lên cao, đưa quân ngụy đến bờ vực tan rã.

Đặc biệt, trong Chiến dịch Plây Me (1965), ta tổ chức vây ép đồn Plây Me, diệt đồn Chư Ho, buộc địch phải ứng cứu, giải tỏa bằng đường không xuống thung lũng Ia Đrăng – địa bàn ta đã chuẩn bị sẵn thế trận, tổ chức đánh trận then chốt quyết định, tiêu diệt gần 1 tiểu đoàn, đánh thiệt hại tiểu đoàn khác, buộc Sư đoàn Kỵ binh không vận Mỹ lần đầu ra quân đã phải rút chạy khỏi thung lũng Ia Đrăng. Ta càng đánh càng mạnh, chủ lực Quân giải phóng liên tục phát triển với đầy đủ các quân, binh chủng, cho phép tổ chức các chiến dịch quy mô lớn, các hoạt động tác chiến chiến lược, như: cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Trị Thiên – Huế, Chiến dịch Đà Nẵng và Chiến dịch quyết chiến chiến lược Hồ Chí Minh (1975). Những trận đánh, chiến dịch tiến công, phản công quân sự và hoạt động tác chiến chiến lược trên toàn chiến trường của Quân giải phóng cùng các hoạt động đấu tranh ngoại giao, chính trị của Trung ương và Mặt trận, đoàn thể địa phương, góp phần quyết định thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược: đánh cho “Mỹ cút”, đánh cho “ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Bốn là, với tầm nhìn vượt trước, Đảng ta đã nắm, tận dụng thời cơ, lãnh đạo, chỉ đạo Quân giải phóng tổng tiến công chiến lược, kết thúc chiến tranh trong điều kiện có lợi nhất

Trong nước, quân ngụy đang suy yếu, lo chống đỡ các đòn tiến công của chủ lực Quân giải phóng, thế và lực của cách mạng đang phát triển mạnh mẽ, toàn diện, đây là thời cơ để kết thúc chiến tranh: “Lúc này chúng ta đang có thời cơ. Hai mươi năm chiến đấu mới tạo được thời cơ này”12, cần phải kịp thời nắm lấy để “hoàn toàn giải phóng miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn cho cách mạng dân tộc, dân chủ… ngoài thời cơ này không có thời cơ nào khác. Nếu để chậm mươi, mười lăm năm nữa, bọn ngụy gượng dậy được, các thế lực xâm lược được phục hồi,… thì tình hình sẽ phức tạp vô cùng”13. Vì vậy, chúng ta phải tranh thủ, tận dụng thời cơ tổng tiến công và nổi dậy để đánh cho “ngụy nhào”. Sau khi ta giành thắng lợi nhanh chóng, áp đảo quân địch trong các Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Trị Thiên – Huế và Chiến dịch Đà Nẵng, Trung ương Đảng quyết định tận dụng thời cơ này, đẩy thời gian giải phóng miền Nam vào năm 1975, sớm hơn so với quyết tâm ban đầu. Đồng thời, chỉ đạo các đơn vị chủ lực miền Bắc khẩn trương tăng cường cho chiến trường miền Nam theo phương châm vừa hành quân, vừa chiến đấu, với tinh thần “đi nhanh đến, đánh nhanh thắng” và khí thế “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo: “Một ngày bằng 20 năm, thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa; tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”14.

Cuối tháng 3, đầu tháng 4/1975, ta đã hội tụ đầy đủ các yếu tố về ý chí quyết tâm, lực lượng (chính trị, quân sự, quần chúng nhân dân), phương tiện, công tác chỉ huy, bảo đảm,… để tiến lên giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam. Ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị đã thông qua Kế hoạch giải phóng Sài Gòn mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh. Chiến dịch quyết chiến chiến lược cuối cùng diễn ra trong thời gian ngắn và đi đến toàn thắng, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, non sông thu về một mối. Kết quả này khẳng định mưu lược, tài nghệ chính trị – quân sự của Đảng ta trong nắm và tận dụng thời cơ kết thúc chiến tranh.

Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với cách mạng miền Nam nói chung và Quân giải phóng miền Nam Việt Nam nói riêng để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý về tiến hành chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân Việt Nam; nổi bật là bài học về tầm nhìn chiến lược và sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với Quân giải phóng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bài học đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn, cần tiếp tục được nghiên cứu, phát triển trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại tướng LƯƠNG CƯỜNG, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam

1 – Lê Duẩn, Thư vào Nam, Nxb Sự thật, H. 1985, tr. 43.

2 – Viện Lịch sử quân sự Việt Nam – Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 – 1975, Nxb CTQG, H. 1997, tr. 32-33.

3 – Lê Duẩn, Thư vào Nam, Nxb Sự thật, H. 1985, tr. 42.

4 – Sđd, tr. 42.

5 – Viện Lịch sử quân sự Việt Nam – Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 – 1975, Tập 3, Nxb CTQG, H. 1997, tr. 27.

6 – Sđd, tr. 31, 32.

7 – Hồ Chí Minh, Biên niên sự kiện và tư liệu quân sự, Nxb QĐND, H. 1990, tr. 203.

8- Lê Duẩn, Thư vào Nam, Nxb Sự thật, H. 1985, tr. 49.

9 – Sđd, tr. 34.

10 – Đến cuối năm 1967, ở Sài Gòn, ta đã xây dựng được 19 tổ chức cơ sở chính trị tại các mục tiêu trọng yếu, gồm 325 gia đình, tạo được 400 điểm ém lực lượng, cất giấu vũ khí, đạn dược bảo đảm an toàn (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam – Tổng kết tác chiến chiến lược trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 – 1975), Nxb Chính trị quốc gia, H. 1997, tr. 577).

11 – Trong 15 năm kháng chiến chống Mỹ (1960 – 1975), hậu phương tại chỗ trên các chiến trường miền Nam đã bảo đảm 22,5% nhu cầu vật chất cho lực lượng vũ trang (Sđd, tr. 577).

12 – Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 35, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1974, tr. 177.

13 – Sđd, tr. 179.

14 – Đại tướng Võ Nguyên Giáp với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 2005, tr. 952.

Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Trong Kháng Chiến Chống Mỹ, Cứu Nước

Trong những năm 1959 – 1960, dưới ách đô hộ, kìm kẹp của chính quyền Ngô Đình Diệm, phong trào Đồng Khởi của nhân dân miền Nam phát triển mạnh mẽ, làm chủ nhiều thôn, xã, mở ra cục diện mới cho cách mạng miền Nam. Cục diện đó đòi hỏi phải có một tổ chức chính trị thích hợp và có uy tín, nhằm tập hợp, đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, mọi lực lượng yêu nước, đưa cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn. Từ nhu cầu thực tiễn đó, ngày 20-12-1960, tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, Đại hội đại biểu các giai cấp, các tôn giáo, dân tộc toàn miền Nam đã quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Quyết định đó thể hiện tư duy, tầm nhìn chiến lược của Đảng ta đối với cách mạng miền Nam. Sự ra đời của Mặt trận đã góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Vai trò đó được thể hiện trên một số vấn đề cơ bản sau:

1. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã đoàn kết mọi lực lượng yêu nước ở miền Nam, làm cơ sở để thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc. Trong suốt quá trình hoạt động, Mặt trận đã giương cao ngọn cờ đoàn kết các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, dân tộc, đảng phái, đoàn thể, tôn giáo và thân sĩ yêu nước, không phân biệt xu hướng chính trị để đấu tranh đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai. Mặt trận chủ trương đoàn kết rộng rãi các lực lượng, nhằm bảo vệ độc lập, dân chủ, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc. Đây là một chủ trương đúng đắn, sáng tạo và phù hợp với thực tiễn cách mạng miền Nam lúc bấy giờ. Bằng nhiều biện pháp, Mặt trận đã đi sâu tuyên truyền, giáo dục cho các tầng lớp trong xã hội thấy rõ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân miền Nam; nhận rõ bộ mặt thật của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai; từ đó, vận động, hướng dẫn họ đứng vào mặt trận chống Mỹ, cứu nước, thông qua các hình thức đấu tranh: bãi công, bãi thị, mít tinh, v.v. Mặt trận còn xây dựng cơ sở cốt cán trong hàng ngũ trí thức, công chức, nhân sĩ, già làng; nắm lực lượng binh lính, dân vệ ở các dinh điền, buôn, ấp, vận động họ trở về với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân. Đặc biệt, các thành phần cốt cán của Mặt trận còn đi sâu, bám sát phong trào đấu tranh cách mạng, xây dựng căn cứ kháng chiến, “lõm chính trị” vùng địch hậu; phát động phong trào phá ấp chiến lược, giải phóng nông thôn. Nhờ đó, chỉ trong thời gian ngắn, hội viên tham gia Mặt trận phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng; nếu năm 1961, Mặt trận chỉ có gần 40 vạn hội viên, đến năm 1962 đã tăng lên hàng triệu người. Mặt trận trở thành tâm điểm thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân có chung nguyện vọng hòa bình, giải phóng miền Nam. Dưới ngọn cờ đoàn kết của Mặt trận, vùng giải phóng ngày càng được mở rộng và củng cố: đến cuối năm 1965, có 4/5 diện tích đất đai của miền Nam và với hơn 10 triệu dân.

Cùng với tập hợp lực lượng, dưới sự lãnh đạo của Mặt trận, các tổ chức thành viên như: Hội Liên hiệp Thanh niên giải phóng; Hội Nông dân giải phóng; Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng; Hội Lao động giải phóng,… đã nhanh chóng ra đời. Các Ủy ban Mặt trận, các ban tự quản nhân dân ở các địa phương được thành lập, ra mắt nhân dân và hầu hết các xã thuộc vùng giải phóng, vùng tranh chấp đều có cơ sở của Mặt trận. Hệ thống Ủy ban Mặt trận các cấp vừa là nơi tập hợp, đoàn kết các giới, các dân tộc, tôn giáo, các thành phần chính trị ở địa phương, vừa làm nhiệm vụ xử lý những công việc của các đơn vị hành chính kháng chiến, giữ gìn trật tự trị an, hướng dẫn quần chúng sản xuất, học tập,… và tiến hành nhiều biện pháp như: chia ruộng 1, giảm tô, xóa nợ. Với thực tế đó, Mặt trận tồn tại như một chính thể và Ủy ban Trung ương Mặt trận hoạt động như một chính phủ lâm thời, đại diện cho các vùng thuộc quyền kiểm soát, quản lý của mình. Trước sự phát triển mạnh mẽ của Mặt trận và cách mạng miền Nam, Trung ương Cục đã ra Chỉ thị 13-CTNT, ngày 25-5-1968 về đổi tên Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng các cấp thành Ủy ban nhân dân cách mạng. Tiếp đó, từ ngày 06 đến ngày 08-6-1969, Đại hội đại biểu Quốc dân ở miền Nam đã quyết định thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, tạo vị thế chính trị mới cho phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam chống đế quốc Mỹ và chế độ ngụy quyền Sài Gòn.

2. Đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị; tăng cường triển khai các hoạt động đối ngoại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng miền Nam. Thực hiện Cương lĩnh và Chương trình 10 điểm, phối hợp với hoạt động tác chiến của lực lượng vũ trang, Mặt trận đã lãnh đạo, tổ chức nhân dân đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị rộng khắp, sôi nổi trên cả ba vùng chiến lược, với nhiều hình thức, biện pháp thích hợp. Theo đó, Mặt trận đã động viên đông đảo quần chúng, các giới, các lực lượng tham gia chống địch càn quét, khủng bố, cô lập và tiêu diệt bọn đầu sỏ, ác ôn, vận động hàng vạn binh sĩ, nhân viên ngụy quyền về với nhân dân. Chỉ tính từ năm 1961 đến năm 1969, đã có hơn 140 triệu lượt đồng bào tham gia đấu tranh chính trị với nhiều phong trào tiêu biểu, như: phong trào đấu tranh của đồng bào Phật giáo cuối năm 1963, 3 vạn đồng bào thành phố Đà Nẵng tuần hành kết hợp với bãi chợ, bãi khóa ngày 24-8-1964, v.v. Điều đáng nói là phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam không những phát triển ở nông thôn, mà còn phát triển mạnh mẽ, rộng khắp ở các đô thị miền Nam. Phong trào đấu tranh đó làm cho ngụy quyền tay sai lung lay tận gốc rễ, làm rối loạn tận sào huyệt của Mỹ, tạo điều kiện để đồng bào ta diệt ác ôn, phá kìm kẹp, giành quyền làm chủ ở nhiều địa phương, khu vực.

3. Tích cực tham gia xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng hậu, làm nòng cốt cho chiến tranh nhân dân để đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Trên cơ sở Cương lĩnh và Chương trình hành động đã xác định, Mặt trận tích cực tập hợp lực lượng, tiến hành xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân; tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, chống lại sự can thiệp của Mỹ, chính quyền Sài Gòn và các đồng minh của Mỹ. Đây là bước phát triển mới, sáng tạo của Mặt trận, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Theo đó, Mặt trận đã tổ chức vận động, giác ngộ nhân dân, nhất là lực lượng chính trị quần chúng tham gia lực lượng vũ trang ba thứ quân, đặc biệt là tham gia các đội vũ trang tự vệ, dân quân du kích, vừa sản xuất, vừa chiến đấu; các đoàn thể đẩy mạnh xây dựng xã chiến đấu, phát triển lực lượng du kích, tự vệ, biệt động, tổ chức đánh địch mọi lúc, mọi nơi, v.v.

Đầu năm 1961, đế quốc Mỹ tăng cường can thiệp vũ trang vào miền Nam. Chúng thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt” với thủ đoạn dùng người Việt đánh người Việt bằng đô la và cố vấn Mỹ; xây dựng, triển khai kế hoạch “ấp chiến lược” hòng tách rời nhân dân ra khỏi lực lượng của Mặt trận. Trước tình hình đó, Uỷ ban Trung ương lâm thời Mặt trận kêu gọi nhân dân miền Nam tập trung mọi nỗ lực, kiên quyết đánh thắng “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ và quân đội Sài Gòn. Theo đó, lực lượng vũ trang miền Nam nhanh chóng phát triển từ các đơn vị bộ đội địa phương, dân quân du kích, lên các tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn chủ lực; từ tác chiến du kích tiến lên tác chiến lớn bằng các đơn vị chủ lực; từ những trận có tính chất thăm dò tiến tới đánh thắng những trận then chốt, quyết định, đập tan các chiến lược, chiến thuật quân sự của Mỹ, như: chiến thắng Núi Thành, Ba Gia, Bầu Bàng, Plâyme, v.v. Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận, các tầng lớp nhân dân miền Nam đã phối hợp chặt chẽ với hoạt động tác chiến của Quân giải phóng, tiến hành nhiều hình thức đấu tranh bằng “hai chân, ba mũi, ba vùng”, kết hợp đấu tranh trên cả ba mặt trận: chính trị, quân sự và ngoại giao; kết hợp tiến công và nổi dậy, tổng khởi nghĩa, tổng tiến công,… tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, đánh bại từng chiến lược chiến tranh, tiến lên đánh bại hoàn toàn chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.

Sự ra đời và hoạt động hiệu quả của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam cho thấy vai trò, tầm quan trọng của Mặt trận đối với cách mạng miền Nam; qua đó, khẳng định đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta. Sự ra đời đó đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và khát vọng cháy bỏng của nhân dân hai miền vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong 16 năm thực hiện sứ mệnh lịch sử giao phó (20-12-1960 – 31-01-1977), Mặt trận đã khẳng định vai trò to lớn trong việc tập hợp, đoàn kết mọi lực lượng, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân vững mạnh, tạo sức mạnh tổng hợp để hoàn thành thắng lợi cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ của dân tộc.

1 – Đến hết năm 1965, chính quyền cách mạng đã chia 70% diện tích canh tác cho nông dân không có ruộng.

45 Năm Giải Phóng Miền Nam: Chỉ Đạo Chiến Lược Của Bộ Chính Trị

Bước vào nửa cuối năm 1974, cục diện chiến tranh có sự chuyển biến mạnh mẽ theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng. Trước tình hình đó, Đảng Lao động Việt Nam triệu tập Hội nghị Bộ Chính trị (họp từ ngày 30/9-7/10/1974) đề bàn kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Hội nghị đã phân tích tình hình và rút ra những nhận định rất quan trọng: Về tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường, cách mạng đang ở thế thắng, thế chủ động và tiến lên; trái lại địch chịu nhiều thất bại liên tiếp nên đang ở thế thua, thế bị động và xuống dốc.

Mỹ đã rút ra, đang gặp nhiều khó khăn, nên không có khả năng quay trở lại (can thiệp trực tiếp bằng quân sự); dù cho Mỹ có can thiệp trở lại bằng quân sự trong chừng mực nào đó thì cũng không xoay chuyển được tình thế, không cứu vãn được sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn.

Do có sự thỏa hiệp với đế quốc Mỹ, một số nước lớn có ý đồ cản trở thắng lợi của cách mạng Việt Nam, chia rẽ tình đoàn kết nhân dân ba nước Đông Dương nhằm phục vụ cho mưu đồ xâm lược bành trướng, nhưng thời điểm này chưa đủ sức, chưa sẵn sàng.

Từ những nhận định trên, Bộ Chính trị đi đến khẳng định đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn. Hai mươi năm nhân dân cả nước chiến đấu mới tạo được thời cơ này. Ngoài thời cơ này, không còn thời cơ nào khác. Nếu để chậm mươi, mười lăm năm nữa, địch gượng dậy được, các thế lực xâm lược bành trướng mạnh lên, tình hình sẽ phức tạp vô cùng.

Trên cơ sở nhận diện đúng thời cơ, Bộ Chính trị đề ra quyết tâm: “Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân ngụy (…), đánh đổ ngụy quyền ở trung ương và các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam” (trích Biên bản kết luận Hội nghị).

Về mặt thời gian, Bộ Chính trị cơ bản thống nhất đề án xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, chia làm hai bước: Bước 1 (1975), tranh thủ thời cơ, bất ngờ mở cuộc tiến công lớn và rộng khắp. Bước 2 (1976), thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam, giành toàn thắng.

Hội nghị cơ bản nhất trí với phương hướng chiến lược đã được Hội nghị Bộ Chính trị lần trước thông qua; đồng thời đi sâu phân tích, làm rõ thêm so sánh lực lượng giữa ta và địch; đánh giá khả năng can thiệp quân sự của Mỹ; trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn của chủ lực ta; về khả năng giành thắng lợi nhanh gọn, triệt để…

Giữa lúc Hội nghị đang diễn ra thì nhận được tin Quân giải phóng miền Nam đã giành thắng lợi vang dội trong chiến dịch Đường 14-Phước Long (13/12/1974-6/1/1975). Ta loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch; phá hủy, thu giữ nhiều loại vũ khí, đạn dược (trong đó có gần 10.000 viên đạn pháo); giải phóng toàn tỉnh Phước Long với 50.000 dân, tạo thêm bàn đạp uy hiếp từ phía bắc Sài Gòn. Cả Mỹ và chính quyền Sài Gòn đều phản ứng yếu ớt rồi chấp nhận thất bại.

Chiến thắng Phước Long có giá trị như “đòn trinh sát chiến lược,” cho thấy rõ hơn khả năng Mỹ sẽ không can thiệp trở lại bằng quân sự; đồng thời bộc lộ trình độ tác chiến yếu kém của chủ lực quân đội Sài Gòn, ta có thể giành thắng lợi sớm hơn.

Dựa trên những cơ sở thực tiễn mới nhất, đặc biệt là chiến thắng Phước Long, Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng khẳng định: “Thời cơ chiến lược của ta đang phát triển nhanh chóng đến độ chín muồi”, từ đó, chính thức hạ quyết tâm chiến lược: “Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, trong thời gian hai năm 1975-1976 đẩy mạnh đấu tranh quân sự, chính trị, kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta; tiến hành rất khẩn trương và hoàn thành mọi mặt công tác chuẩn bị, tạo điều kiện chín muồi, tiến hành tổng công kích tổng khởi nghĩa tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền từ trung ương đến địa phương, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam” (trích Biên bản kết luận Hội nghị).

Tuy đề ra kế hoạch hai năm 1975-1976, Hội nghị lần này cũng chỉ rõ nếu thời cơ đến sớm hơn, vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Phải tranh thủ đánh thắng nhanh để giảm bớt sự thiệt hại về người và của cho nhân dân, giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh. Bộ Chính trị thông qua kế hoạch tác chiến chiến lược do Bộ Tổng tham mưu soạn thảo (trải qua 8 lần xin ý kiến chỉnh sửa), thống nhất chọn Nam Tây Nguyên là hướng tiến công chủ yếu, với mục tiêu chính là thị xã Buôn Ma Thuột.

Đây là quyết tâm chiến lược cuối cùng giải phóng hoàn toàn miền Nam của tập thể Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, là kết quả của sự chuẩn bị chiến lược hết sức chủ động, dũng cảm, sáng tạo, công phu kiên trì, bền bỉ trên tất cả các mặt (chính trị, quân sự, ngoại giao, tiềm lực hậu phương và tiền tuyến, thế trận và lòng người…) trong thời gian dài, thể hiện trí tuệ, bản lĩnh Việt Nam trong “cuộc đụng đầu lịch sử” với đế quốc Mỹ và lực lượng phản động, tay sai.

Thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị đề ra, nhân dân cả nước ra sức chuẩn bị mọi mặt với khí thế hào hùng chưa từng có, hướng tới trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Trên khắp chiến trường, đầu năm 1975, quân dân ta đẩy mạnh hoạt động, đánh địch khắp nơi theo quy mô vừa và nhỏ là chính, vừa làm cho địch tiếp tục suy yếu và bị động, vừa thực hành nghi binh che giấu ý đồ, mục tiêu tiến công chiến lược của ta.

Trong lúc đó, Mỹ và chính quyền Sài Gòn vẫn chủ quan, đánh giá: sang năm 1975, phía Quân giải phóng sẽ đánh với quy mô mạnh hơn năm 1974, nhưng không bằng năm 1968 và năm 1972. Quân giải phóng cũng chưa có khả năng đánh chiếm thị xã, thành phố lớn, và nếu có chiếm cũng không giữ được.

Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu còn nhận định: hướng tiến công chủ yếu của Quân giải phóng là miền Đông Nam Bộ, do đó, bên cạnh việc tập trung lực lượng mạnh phòng thủ ở Quân khu 1 (tiếp giáp miền Bắc), địch huy động lực lượng về củng cố phòng thủ ở Quân khu 3 (miền Đông Nam Bộ).

Chỉ đạo kiên quyết, linh hoạt, sáng tạo

Thực hiện kế hoạch tác chiến chiến lược đã đề ra, sau một quá trình chuẩn bị, từ ngày 4/3/1975, quân dân ta bất ngờ mở chiến dịch tiến công Tây Nguyên, đánh chiếm mục tiêu chủ yếu (Buôn Ma Thuột) làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch trên chiến trường miền Nam.

Ngày 3/4/1975, chiến dịch Tây Nguyên kết thúc thắng lợi. Ta tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2-Quân khu 2 của chính quyền Sài Gòn, giải phóng Tây Nguyên cùng một số tỉnh ven biển Trung Trung Bộ, làm thay đổi cơ bản so sánh lực lượng, thế chiến lược giữa ta và địch, tạo bước ngoặt quyết định, đưa cuộc tiến công chiến lược của ta phát triển thành tổng tiến công trên toàn miền Nam.

Thắng lợi bước đầu của chiến dịch Tây Nguyên, đặc biệt là trận then chốt giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột (10/3/1975) và thông tin địch rút toàn bộ lực lượng khỏi Tây Nguyên đã mở ra khả năng thắng lớn của cách mạng.

Nhận thấy thời cơ chiến lược đến nhanh hết sức thuận lợi, ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị họp bàn, bổ sung vào quyết tâm chiến lược: thực hiện phương án tranh thủ thời cơ, giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay trong năm 1975. Kế hoạch hai năm được rút xuống còn một năm. Bộ Chính trị nhấn mạnh: Muốn hoàn thành nhiệm vụ cơ bản đó, nhiệm vụ trước mắt của quân và dân ta là mở đòn tiến công chiến lược thứ hai nhằm giải phóng Huế-Đà Nẵng và các tỉnh ven biển miền Trung.

Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị đề ra, quân dân ta đẩy mạnh tiến công địch ở Trị – Thiên, các tỉnh đồng bằng ven biển Khu 5, gây áp lực mạnh buộc địch phải thu dồn lực lượng về giữ các thành phố lớn là Huế, Đà Nẵng. Tranh thủ thời cơ địch co cụm, các binh đoàn chủ lực của ta phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang cùng nhân dân địa phương nhanh chóng mở các đợt tiến công giải phóng nhiều vùng nông thôn rộng lớn; đồng thời tổ chức các mũi thọc sâu chia cắt địch, chặn đường rút chạy của chúng, hình thành thế bao vây địch trong thành phố.

Ngày 25/3/1975, trong khi chiến trường đang diễn biến sôi động, bước vào thời điểm khẩn trương và quyết định, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã họp bàn khẳng định: “Cuộc tổng tiến công chiến lược của ta đã bắt đầu với chiến dịch Tây Nguyên. Thời cơ chiến lược mới đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam,” từ đó đề ra chủ trương: tập trung nhanh nhất binh lực, vật lực giải phóng miền Nam trước mùa mưa (khoảng giữa tháng 5/1975). Kế hoạch một năm tiếp tục được rút xuống còn 5 tháng.

Bộ Chính trị hạ quyết tâm mở chiến dịch lịch sử có ý nghĩa quyết định với quy mô lớn nhất: Chiến dịch tổng công kích và nổi dậy giải phóng Sài Gòn (sau được mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh). Nhưng muốn đi đến đòn quyết chiến chiến lược ấy, Bộ Chính trị chỉ đạo: dứt điểm giải phóng Thừa Thiên-Huế; đồng thời tiến công Đà Nẵng kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất và chắc thắng.

Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, tranh thủ địch đang hoang mang dao động, các cánh quân chủ lực của ta đồng loạt tiến công, chỉ trong thời gian ngắn đập tan mọi tuyến phòng thủ của địch, giải phóng Huế (26/3/1975), giải phóng Đà Nẵng (29/3) cùng các tỉnh ven biển miền Trung.

Ta đã tiêu diệt, làm tan rã toàn bộ lực lượng Quân đoàn 1-Quân khu 1 của địch, giáng đòn nặng nề vào chính quyền, quân đội Sài Gòn cũng như kế hoạch kéo dài chiến tranh của Mỹ; mở ra vùng hậu phương chiến lược hoàn chỉnh nối liền với miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng dễ dàng cơ động lực lượng, binh khí kỹ thuật phục vụ cho tác chiến quy mô lớn hơn. Thắng lợi này hợp cùng với thắng lợi Tây Nguyên đã làm thay đổi căn bản so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo bước phát triển nhảy vọt về cục diện chiến tranh hoàn toàn có lợi cho cách mạng.

Căn cứ vào những chuyển biến hết sức mau lẹ từ chiến trường, ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị họp bàn, ra quyết định lịch sử: “Nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng tư năm nay, không để chậm.” Kế hoạch 5 tháng tiếp tục được rút xuống còn 4 tháng. Bộ Chính trị cũng đề ra phương châm chỉ đạo: “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng.”

Đến ngày 7/4/1975, phương châm chỉ đạo này đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp phát lệnh truyền đi khắp các hướng chiến trường. Ngày 14/4/1975, thể theo nguyện vọng của đồng bào, chiến sĩ cả nước và đề nghị của Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn, Bộ Chính trị họp bàn, đồng ý chiến dịch giải phóng Sài Gòn ấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Vào những ngày tháng 4/1975, trên mọi miền đất nước, nhân dân ta ra sức chuẩn bị cho trận quyết chiến lịch sử. Quân ta trên chiến trường ra sức tạo thế, tạo lực.

Ngày 9/4/1975, quân ta tiến công Xuân Lộc – tuyến phòng thủ trọng yếu bảo vệ Sài Gòn từ phía đông của quân đội Sài Gòn. Ngày 16/4, quân ta đập tan tuyến phòng thủ Phan Rang.

Ngày 21/4/1975, quân địch ở Xuân Lộc tháo chạy. Trong khi đó, địch bị tổn thất nặng nề về lực lượng và phương tiện, tinh thần hoàng mang. Mỹ lập cầu hàng không viện trợ khẩn cấp cho chính quyền, quân đội Sài Gòn nhằm cứu vãn sự sụp đổ hoàn toàn, hi vọng tìm kiếm một giải pháp qua đàm phán.

Ngày 22/4/1975, Bộ Chính trị họp bàn, phát lệnh: “Thời cơ để mở cuộc tổng tiến công về quân sự và chính trị vào Sài Gòn đã chín muồi. Ta cần tranh thủ từng ngày để kịp thời phát động tiến công. Hành động trong lúc này là bảo đảm chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn. Nếu để chậm sẽ không có lợi cả về quân sự và chính trị.”

Ngày 26/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh chính thức bắt đầu. Tất cả các cánh quân của ta, bao gồm 4 quân đoàn (1, 2, 3, 4) và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn) lần lượt đập tan các tuyến phòng thủ vòng ngoài, đồng thời hình thành các mũi thọc sâu đánh chiếm 5 mục tiêu trọng yếu trong nội đô Sài Gòn.

Trưa ngày 30/4/1975, Quân giải phóng tiến vào Dinh độc lập, bắt sống toàn bộ nội các chính quyền Sài Gòn, buộc tổng thống Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.

Như vậy, trải qua gần hai tháng Tổng tiến công và nổi dậy, quân dân Việt Nam đã giành thắng lợi trọn vẹn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc chặng đường 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng thời kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc kể từ Cách mạng tháng Tám năm 1945. Chiến công hiển hách đã làm kinh ngạc làm kinh ngạc cả thế giới.

Nhìn lại thắng lợi vang dội của 45 năm về trước, chúng ta càng nhận thức rõ ràng hơn về nghệ thuật chỉ đạo kết thúc chiến tranh tài tình, sáng tạo của tập thể Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, vượt qua mọi hoạch định, toan tính chiến tranh xâm lược của đối phương.

Quá trình chỉ đạo chiến lược của Bộ Chính trị trong giai đoạn kết thúc chiến tranh ấy đã để lại những bài học lịch sử lớn, quan trọng đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, như: kiên định mục tiêu độc lập dân và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh mới; bám sát thực tiễn, nhận diện nắm bắt đúng thời cơ, phát huy sức mạnh nội lực, kết hợp với tranh thủ những điều kiện khách quan thuận lợi để vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi mục tiêu cơ bản đề ra; tăng cường giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ trong mọi chủ trương, đường lối, chính sách vì lợi ích quốc gia, dân tộc; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng tiềm lực, thế trận quốc phòng-an ninh vững chắc, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt…

Quyết Tâm Và Chiến Lược Của Đảng Trong Giải Phóng Miền Nam, Thống Nhất Tổ Quốc

Cách đây vừa tròn 45 năm, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, quân và dân ta đã làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Chiến thắng 30-4-1975 là một đỉnh cao của truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, là thắng lợi của tinh thần, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam được kết tinh trong đường lối chiến tranh nhân dân sáng tạo, độc lập, tự chủ của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; là kết quả của hàng chục năm chiến đấu kiên cường của nhân dân hai miền Nam – Bắc. Kỷ niệm 45 năm chiến thắng 30-4 là dịp để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta ôn lại quá khứ vẻ vang, hiểu rõ sự đúng đắn trong đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt là quyết tâm chiến lược của Đảng: Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cũng như đúc rút bài học lịch sử đối với công cuộc đổi mới hiện nay.

Người dân Sài Gòn ngợp cờ hoa, biểu ngữ vui mừng trước chiến thắng ngày 30/4/1975 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Như chúng ta đã biết, ngày 27-1-1973, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (Hiệp định Pari) được kí kết, ghi nhận thắng lợi cơ bản của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Đế quốc Mỹ buộc phải rút hết quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam vào ngày 29-3-1975, song Mỹ vẫn tiếp tục âm mưu dùng quân đội Sài Gòn (quân ngụy) làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Vì vậy, Trung ương Đảng đã chỉ rõ “ký Hiệp định Pari là nhằm đuổi Mỹ ra khỏi miền Nam, thắng địch một bước căn bản, tạo điều kiện để tiến lên hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước”(1).

Hội nghị Thường vụ Trung ương Cục mở rộng (từ 28 đến 30-7-1973) nhận định: Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đấu tranh buộc địch phải thi hành Hiệp định Pari. “Lúc này, chúng ta đang có thời cơ. Hai mươi năm chiến đấu mới tạo được thời cơ này, chúng ta phải biết nắm lấy để đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn… đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn cho cách mạng dân tộc dân chủ… Ngoài thời cơ này không có thời cơ nào khác. Nếu để chậm mươi, mười lăm năm nữa, bọn ngụy gượng dậy được, các thế lực xâm lược được phục hồi… thì tình hình sẽ phức tạp vô cùng”(2).

Quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị được thể hiện trong kế hoạch chiến lược hai năm 1975-1976: Năm 1975 tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộng khắp; năm 1976 tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Ngoài ra, Bộ Chính trị còn dự kiến một phương án quan trọng trong kế hoạch năm 1975 là: Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng, chiến trường Tây Nguyên được chọn làm hướng tiến công chủ yếu của cuộc Tổng tiến công chiến lược Xuân 1975, với trận then chốt mở màn là đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột. Chỉ sau không đầy hai ngày chiến đấu, đến 10 giờ 30 ngày 11-3-1975, quân ta giải phóng hoàn toàn thị xã Buôn Ma Thuột. Chiến thắng Buôn Ma Thuột là đòn phủ đầu điểm trúng huyệt kẻ thù, làm cho Kon Tum, Plâyku bị cô lập, toàn bộ hệ thống phòng ngự chiến lược của địch ở Tây Nguyên bị rung chuyển mạnh. “Trước tình hình ta thắng lớn ở Tây Nguyên, trong cuộc họp ngày 18-3-1975, Bộ Chính trị kịp thời bổ sung quyết tâm chiến lược: Giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975”(4).

Trước đà thắng lợi của ta ở Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ, ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị họp và khẳng định: Thời cơ chiến lược mới đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam. Đồng thời Bộ Chính trị đề ra chủ trương: “Nắm vững thời cơ chiến lược tập trung lực lượng vào hướng chủ yếu, hành động táo bạo, bất ngờ, giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa”(5). Ngày 29-3-1975, Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ 15 đã ra Nghị quyết đặc biệt, trong đó nhấn mạnh: Nhiệm vụ trực tiếp khẩn cấp lúc này là: “Động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tập trung cao nhất mọi sức mạnh tổng hợp ba mũi giáp công, ba thứ quân, ba vùng, vùng lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa, nhanh chóng đánh sụp đổ toàn bộ ngụy quân, ngụy quyền, giành lại toàn bộ chính quyền về tay nhân dân với khí thế tấn công quyết liệt, thần tốc, táo bạo và quyết giành toàn thắng, giải phóng xã mình, huyện mình, tỉnh mình và toàn miền Nam”(6).

Với sự hiệp đồng binh chủng kết hợp với cuộc nổi dậy quy mô lớn của nhân dân thành phố Đà Nẵng, chỉ trong vòng 32 giờ ta đã tiêu diệt hơn 10 vạn địch, thu toàn bộ vũ khí, giải phóng Đà Nẵng vào ngày 29-3-1975. Chiến dịch Huế – Đà Nẵng đại thắng đưa cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tiến lên một bước mới. Tại cuộc họp ngày 31-3-1975, Bộ Chính trị quyết định: Chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng tư năm nay, không để chậm. Phải hành động “thần tốc, táo bạo, bất ngờ”. Phải tiến công ngay lúc địch hoang mang suy sụp”(7). Ngày 1-4-1975, căn cứ vào sự phát triển, tiến công dồn dập như vũ bão của ta trên chiến trường, Bộ Chính trị lại tiếp tục bổ sung quyết tâm chiến lược “giải phóng miền Nam trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4 năm 1975 trước mùa mưa, không thể để chậm”(8). Từ đầu tháng 4-1975, cả dân tộc Việt Nam ra quân như trẩy hội trên mọi nẻo đường của đất nước, từ miền Bắc, hàng đoàn xe ngày đêm hối hả nối đuôi nhau vượt cung, vượt trạm đưa người và hàng ra tiền tuyến.

Trên cơ sở đánh giá tình hình ta và địch trên chiến trường miền Nam, Bộ Chính trị nhận định: Lực lượng quân sự, lực lượng chính trị và thế chiến lược của ta đã hoàn toàn áp đảo quân địch. Quân ngụy đang đứng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn. Mỹ hoàn toàn bất lực, dù có can thiệp cũng không cứu vãn nổi quân ngụy. Thời cơ đã chín muồi để quân và dân ta mở trận quyết chiến lịch sử đánh thẳng vào Sài Gòn đánh đổ toàn bộ ngụy quyền, giành thắng lợi hoàn toàn đã tới. 17 giờ ngày 14-4-1975, trong bức điện số 37 TK gửi mặt trận, “Bộ Chính trị đồng ý chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”(9).

Đúng 17 giờ ngày 26-4, quân ta nổ súng mở màn chiến dịch, từ năm hướng, các quân đoàn lần lượt tấn công Sài Gòn. Từ 26-4 đến 28-4, ta chọc thủng tuyến phòng ngự vòng ngoài(10), xiết chặt vòng vây quanh Sài Gòn. Chiều 27-4, Mỹ buộc Trần Văn Hương từ chức, đưa Dương Văn Minh lên làm Tổng thống ngụy nhằm thương lượng với ta hòng cứu vãn chế độ ngụy quyền Sài Gòn. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương Chỉ thị: “Các anh ra lệnh cho quân ta tiếp tục tiến công Sài Gòn theo kế hoạch; tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của chúng”(11). Năm cánh quân của ta như vành đai thiết chặt cổ họng ngụy quyền Sài Gòn, thực hiện quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam. Hàng vạn nhân dân thành phố Sài Gòn đã đổ xuống đường tham gia bắt tề điệp, truy lung ác ôn, chỉ đường cho bộ đội tiêu diệt hang ổ cuối cùng của địch.

Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, lá cờ cách mạng đã tung bay trên nóc phủ Tổng thống ngụy, chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, thành phố Sài Gòn hoàn toàn giải phóng. Sài Gòn – Gia Định được giải phóng tạo điều kiện cho quân và dân ta ở vùng đồng bằng sông Cửu Long đẩy mạnh tiến công và nổi dậy, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Với thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đã kết thúc thắng lợi. Đất nước ta được thống nhất, non song thu về một mối, Bắc Nam liền một dải, đồng bào Nam Bắc được sum họp một nhà. Thắng lợi to lớn đó đã mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam: Kỷ nguyên cả nước hòa bình, độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đánh giá tầm vóc thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, Đại hội IV của Đảng nhấn mạnh: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của ch ủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc” .

Trong 90 năm từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ đặc biệt trong lịch sử dân tộc, có những thời điểm cam go, có ý nghĩa sống còn nhưng Đảng đều lãnh đạo đất nước vượt qua. “Thực tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam trong 90 năm qua đã chứng tỏ, sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều kỳ tích trên đất nước Việt Nam… Thực tiễn đó khẳng định một chân lý: Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác…”(13).

Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo trải qua gần 35 năm và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực: Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; văn hóa, xã hội phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện, chính trị – xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao… “Với những thành tựu to lớn đã đạt được, chúng ta có cơ sở để khẳng định rằng đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”(14). Tuy nhiên, đ ể bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền, trong bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước hiện nay, hơn lúc nào hết chúng ta phải coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là việc đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa dân… coi đây là nhiệm vụ sống còn của Đảng nhằm xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.

1,2,3- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2004, t.36, tr.188, tr.178-179, tr.85.

4,8- Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước – thắng lợi và bài học,

Nxb Chính trị quốc gia, H, 1996, tr.99.

5- Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam ( 1954-1975), sđd, tr.1076.

6,7- Sđd, tr.1076, tr.95-96.

9,11- Sđd, t.36, tr.109, tr.176.

10- Long Thành, Biên Hòa (phía Đông), Tân An, Bình Chánh (phía Nam), Đông Dù, Củ Chi (phía Bắc).

12- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 471.

13, 14, 15-Diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930-3/2/2023).

PGS,TS Nguyễn Thị Thanh

Bài 11. Cuộc Kháng Chiến Chống Quân Xâm Lược Tống (1075

Bài 11. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống (1075 – 1077)

Bài tập 1 trang 32 SBT Lịch sử 7

Hãy khoanh tròn chữ in hoa trước ý trả lời đúng.

1. Nhà Tống xâm iược Đại Việt nhằm nhiều mục đích, ngoại trừ

A. để giữ yên vùng biên giới phía Bắc của nhà Tống.

B. để vơ vét của cải của Đại Việt, bù đắp ngân khô cạn kiệt,

C. để giải quyết mâu thuẫn nội bộ trong vương triều.

D. tạo bàn đạp để tiến công Cham-pa.

2. Nhà Tống ngăn cản nhân dân hai nước Việt – Tống buôn bán, đi lại ở vùng biên giới phía Bắc để

A. làm cho nền kinh tế Đại Việt kiệt quệ, đình đốn.

B. giữ bí mật, làm cho nhà Lý không biết được sự chuẩn bị xâm lược Đại Việt của nhà Tống.

C. gây áp lực buộc triều đình nhà Lý phải nhượng bộ.

D. gây mâu thuẫn giữa nhân-dân với triều đình, tạo thuận lợi cho nhà Tống xâm lược Đại Việt.

3. Người đề ra và thực hiện chủ trương sáng tạo “tiến công trước để tự vệ” trong cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý là

A. Lý Đạo Thành.

B. Lý Nhân Tông.

C. Lý Thường Kiệt.

D. Lý Thánh Tông.

D 2. B 3. C

Bài tập 2 trang 33 SBT Lịch sử 7

Hãy điền chữ Đ (đúng) hoặc chữ S (sai) vào ô □ trước các câu sau.

□ 1. Từ giữa thế kỉ XI, nhà Tống (Trung Quốc) là một vương triều hùng mạnh.

□ 2. Đời sống của nhân dân Trung Quốc thời Tống ở thế kỉ XI rất sung túc.

□ 3. Lý Thường Kiệt sinh ở Từ Sơn (Bắc Ninh).

□ 4. Tông Đản chỉ huy hơn 10 vạn quân thuỷ – bộ tấn công vào đất Tống.

□ 5. Lý Thường Kiệt chỉ huy cánh quân đường thuỷ, tấn công vào châu Khâm, châu Liêm (Quảng Đông), bao vây Ưng Châu. Tô Giám nhà Tống phải tự tử.

Đúng: 5;

Sai: 1, 2, 3, 4.

Bài tập 3 trang 33 SBT Lịch sử 7

Hãy điền mốc thời gian cho phù hợp với các sự kiện lịch sử trong bảng sau.

Hơn 10 vạn quân đội nhà Lý tấn công vào đất Tống, thực hiện chủ trươns “tiến công trước để tự vệ”

Hơn 10 vạn quân Tống với một vạn ngựa chiến và 20 vạn dân phu tiến vào xâm lược Đại Việt.

Khoảng 30 vạn quân Tống vượt cửa ải Nam Quan qua Lạng Sơn tiến vào nước ta.

Quân đội nhà Lý mở cuộc tấn công lớn vào trận tuyến của quân Tống. Cuộc kháng chiến thắng lợi.

Hơn 10 vạn quân đội nhà Lý tấn công vào đất Tống, thực hiện chủ trương “tiến công trước để tự vệ”

Hơn 10 vạn quân Tống với một vạn ngựa chiến và 20 vạn dân phu tiến vào xâm lược Đại Việt.

Khoảng 30 vạn quân Tống vượt cửa ải Nam Quan qua Lạng Sơn tiến vào nước ta.

Quân đội nhà Lý mở cuộc tấn công lớn vào trận tuyến của quân Tống. Cuộc kháng chiến thắng lợi.

Bài tập 5 trang 34 SBT Lịch sử 7

Trước âm mưu và hành động ráo riết chuẩn bị xâm lược nước ta của nhà Tống, nhà Lý đã có thái độ và hành động ra sao?

Thái độ và hành động: không sợ hãi, quyết tâm và tích cực chuẩn bị lực lượng để đối phó một cách chủ động, khẩn trương.

Bài tập 6 trang 34 SBT Lịch sử 7

Tại sao nói: Chủ trương của Lý Thường Kiệt “tiến công trước để tự vệ là đúng đắn, độc đáo, sáng tạo?

Chủ trương “tiến công trước để tự vệ” là độc đáo vì từ trước đó và sau này chưa có vương triều nào thực hiện. Đúng đắn và sáng tạo vì rất phù hợp với hoàn cảnh khách quan và chủ quan của nước ta dưới thời vương triều Lý lúc bấy giờ.

Bài tập 7 trang 34 SBT Lịch sử 7

Trong cuộc kháng chiến chống Tống xâm lược thời Lý, nhân dân và các tù trưởng miền núi phía Bắc nước ta đã có đóng góp như thế nào?

Nhân dân và các tù trưởng miền núi phía Bắc có đóng góp to lớn trong việc cung cấp nhiều binh lính, tướng giỏi, tham gia thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối kháng chiến ở cả hai giai đoạn.

Bài tập 8 trang 35 SBT Lịch sử 7

Em hãy nêu những công lao đóng góp của Lý Thường Kiệt Cu-ix kháng chiến chống xâm lược Tống thời Lý

Lý Thường Kiệt là Tổng chỉ huy cuộc kháng chiến. Ông đã đề ra chủ trương, đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo. Là người trực tiếp điều binh khiển tướng đánh bại hơn 10 vạn quân xâm lược Tống. Ông đã quyết định kết thúc chiến tranh bằng biện pháp hoà bình đúng đắn. Ông đã góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.

Bài tập 9 trang 35 SBT Lịch sử 7

Em hãy trình bày nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống xâm lược Tống thời Lý.

Cuộc kháng chiến chống Tống thắng lợi là nhờ có lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất của dân tộc Đại Việt. Chủ trương, đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của triều đình. Tinh thần đoàn kết chiến đấu của quân dân ta, tài năng của các cá nhân kiệt xuất.

Cuộc kháng chiến thắng lợi đã bảo vệ được nền độc lập, tự chủ của nhân dân ta, góp phần đưa quốc gia Đại Việt phát triển hùng mạnh sau cuộc kháng chiến, để lại những bài học kinh nghiệm quý giá cho công cuộc chống ngoại xâm của nhân dân ta, tô thắm thêm truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

Giải Bài Cuộc Kháng Chiến Chống Quân Xâm Lược Tống (1075

A. Tóm tắt lý thuyết Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống (1075-1077) SGK Lịch sử 7

I . GIAI ĐỌAN THỨ NHẤT -1075 1. Nhà Tống âm mưu xâm lược nước ta

– Nhà Tống muốn bành trướng thế lực và giải quyết khó khăn tài chánh ,xã hội trong nước .

– Nhà Tống cấm buôn bán ở biên giới , dụ dỗ các tù trưởng dân tộc ,xúi Chămpa đánh lên phía nam, nhằm làm suy giảm lực lượng của nhà Lý.

– Nhà Lý cử Thái úy Lý Thường Kiệt làm tổng chỉ huy cuộc kháng chiến; tăng cường lực lượng quốc phòng .

– Để ổn định phía nam, Lý Thánh Tông và Lý Thường Kiệt đem quân đánh bại ý đồ tiến công phối hợp của nhà Tống với Chămpa.

– Lý Thường Kiệt chủ trương độc đáo sáng tạo:” tiến công trước để tự vệ”, ông nói: ” Ngồi yên đợi giặc, không bằng đem quân đánh trước để chặn thế mạnh của giặc”

*Thực hiện:

– Mục tiêu đánh thành Ung Châu , Châu Khâm, Châu Liêm là căn cứ xuất phát , là địa điểm tập trung lương thực , vũ khí tiến hành những trận đánh thăm dò Đại Việt của Nhà Tống.

– Cuối năm 1075, 10 vạn quân ta , chia làm 2 đạo tiến vào đất Tống:

+ Đạo quân bộ vượt biên giới đánh lên Châu Ung .

+ Lý Thường Kiệt chỉ huy quân thủy , đổ bộ vào Châu Khâm… rồi từ đó tiến về phía thành Ung Châu.

– Sau 42 ngày đêm công phá ta chiếm được thành, chủ động rút quân, chuẩn bị phòng tuyến chặn địch ở trong nước.

làm thay đổi kế hoạch và làm chậm lại cuộc tấn công xâm lược Đại Việt của Nhà Tống.

* Hành quân để tự vệ, không là xâm lược: ta tấn công khu quân sự, kho lương thảo, nơi chuẩn bị xâm lược nước ta, ta treo bảng nói rõ mục đích tấn công để tự vệ, sau đó ta rút quân.

II. GIAI ĐOẠN THỨ HAI ( 1076-1077) 1 Kháng chiến bùng nổ * Chuẩn bị :

– Sau khi rút quân khỏi thành Ung Châu, Lý Thường Kiệt cho quân bố phòng:

+ Cho quân mai phục ở biên giới.

+ Cử Lý Kế Nguyên giữ vùng biển Quảng Ninh để chặn quân thủy.

+ Xây dựng phòng tuyến Sông Cầu (sông Như Nguyệt), do Lý Thường Kiệt chỉ huy gồm cả quân thủy và quân bộ.

* Diễn biến: Cuối năm 1076 quân Tống tấn công nước ta bằng 2 cánh quân thủy bộ:

+ Quân bộ do Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy gồm 10 vạn bộ binh tinh nhuệ, 1 vạn ngựa chiến, 20 vạn dân phu . Quân thủy do Hòa Mâu dẫn đầu .

+ Quân bộ vượt ải Nam Quan vào Lạng sơn bị Thân cảnh Phúc chặn đánh phải dừng lại ở bờ bắc sông Như Nguyệti , chờ quân thủy tiếp viện, nhưng quân thủy đã bị Lý kế Nguyên đánh bại .

– Để khích lệ tinh thần chiến đấu của quân sĩ, Lý Thường Kiệt cho người vào đền bên sông ngâm bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà”.

– Thất vọng, Quách Quỳ ra lệnh “Ai còn bàn đánh sẽ bị chém” và chuyển sang củng cố phòng ngự.Quân Tống mệt mỏi, , lương thảo cạn dần,chán nản, bị động

– Cuối xuân năm 1077, quân Lý Thường Kiệt, bất ngờ tấn công đánh mạnh vào trại giặc, quân Tống thua to ,tuyệt vọng phải chấp nhận giảng hòa và rút quân .

* Ý nghĩa:

– Cuộc chiến ở Như Nguyệt là trận đánh tuyệt vời trong lịch sử chống ngoại xâm .

– Nền độc lập tử chủ của Đại Việt được củng cố .

– Nhà Tống từ bỏ mộng xâm lược Đại Việt .

* Nguyên nhân thắng lợi:

– Tinh thần đoàn kết các dân tộc, tinh thần yêu nước,quyết chiến ,quyết thắng của nhân dân ta.

– Tinh thần chủ động, tích cực trong chiến lược, chiến thuật của vua tôi nhà Lý, tài chỉ huy của Lý Thường Kiệt.

*Cách đánh độc đáo của Lý Thường Kiệt:

– Tiến công thành Ung Châu để tự vệ .

– Chủ động xây dựng phòng tuyến Như Nguyệt để chận địch vào Thăng Long .

– Phòng thủ để địch chán nản và mệt mỏi .

– Chủ động giảng hòa để giữ danh dự cho nhà Tống .

* Ý nghĩa lịch sử của kháng chiến chống Tống :

Cuộc kháng chiến chống Tống thắng lợi :

– Độc lập được giữ vững

– Đem lại cho nhân dân niềm tự hào sâu sắc .

– Lòng tin tưởng ở sức mạnh và tiền đồ của dân tộc .

– Nhà Tống không xâm lược dù tồn tại mấy trăm năm

B. Bài tập SGK về Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống (1075-1077) SGK Lịch sử 7

Bài 1 trang 43 SGK Lịch sử 7Bài 2 trang 43 SGK Lịch sử 7Bài 3 trang 43 SGK Lịch sử 7

Cập nhật thông tin chi tiết về Tầm Nhìn Chiến Lược Và Sự Lãnh Đạo, Chỉ Đạo Của Đảng Đối Với Quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam Trong Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ, Cứu Nước trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!