Bạn đang xem bài viết Toàn Văn Phát Biểu Của Bí Thư Thành Ủy Tphcm Nguyễn Thiện Nhân Tại Lễ Kỷ Niệm 45 Năm Ngày Giải Phóng Miền Nam, Thống Nhất Đất Nước được cập nhật mới nhất trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Đồng chí Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TPHCM đọc diễn văn tại Lễ kỷ niệm 45 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ảnh: VIỆT DŨNG
PHÁT BIỂU CỦA ĐỒNG CHÍ NGUYỄN THIỆN NHÂN, ỦY VIÊN BỘ CHÍNH TRỊ, BÍ THƯ THÀNH ỦY THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TẠI LỄ KỶ NIỆM 45 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30-4-1975 – 30-4-2020)
Kính thưa đồng chí Nguyễn Thị Kim Ngân – Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam!
Kính thưa đồng chí Trương Hòa Bình – Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ!
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam!
Kính thưa các đồng chí lão thành cách mạng, quý Mẹ Việt Nam Anh hùng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động!
Kính thưa quý đại biểu!
Kính thưa đồng chí, đồng bào Thành phố! Hôm nay, trong không khí hào hùng của những ngày tháng Tư lịch sử, cùng với đồng bào cả nước, Thành ủy – Hội đồng nhân dân – Ủy ban nhân dân – Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 45 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Thay mặt Thành ủy – Hội đồng nhân dân – Ủy ban nhân dân – Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, tôi xin trân trọng gửi đến các đồng chí lão thành cách mạng, quý Mẹ Việt Nam anh hùng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; Anh hùng Lao động; các cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, các thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, gia đìng có công với nước; quý vị đại biểu và đồng bào, đồng chí trên địa bàn Thành phố lời thăm hỏi thân thiết và lời chúc mừng tốt đẹp nhất.
Kính thưa đồng bào, đồng chí và quý vị đại biểu,
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là một trang sử hào hùng trong lịch sử dựng nước và giữ nước vĩ đại của dân tộc ta. Chúng ta đã hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa nước ta bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên của độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa – dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong thời khắc thiêng liêng, xúc động này, chúng ta thành kính tưởng nhớ và đời đời biết ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại – lãnh tụ thiên tài, Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam – Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, non sông đất nước ta; chúng ta bày tỏ sự tri ân, biết ơn vô hạn sự cống hiến to lớn của các thế hệ tiền bối cách mạng đi trước, tưởng nhớ biết bao đồng bào, đồng chí đã anh dũng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc; chúng ta mãi mãi biết ơn sự hy sinh vô bờ bến của quý Mẹ Việt Nam anh hùng, các chiến sĩ của lực lượng tình báo, lực lượng binh vận, các thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với nước, lực lượng thanh niên xung phong, thanh niên tình nguyện, của đồng bào, chiến sĩ cả nước, và Nhân dân Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn – Thành phố Hồ Chí Minh cho độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, vì sự trường tồn của dân tộc, vì cuộc sống và hạnh phúc của Nhân dân.
Kính thưa đồng bào, đồng chí và quý vị đại biểu,
Cách đây hơn một thế kỷ, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Nhà Rồng, với khát vọng tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, đã bắt đầu cuộc hành trình 30 năm ròng, qua 4 châu lục và 28 quốc gia.
Ngày 3-2-1930, dưới sự dẫn dắt của Nguyễn Ái Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, kết thúc thời kỳ “đen tối không có đường ra” của phong trào cách mạng nước ta. Và cũng từ đấy, đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã có Đảng dẫn lối đưa đường, để giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự do và tự quyết định vận mệnh của mình.
Trải qua hai cuộc tổng dợt chiến lược và quy tụ quần chúng làm cách mạng giải phóng dân tộc – là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931 và khởi nghĩa Nam Kỳ oanh liệt 1940, với sự ra đời của Mặt trận Việt Minh vào ngày 19-5-1941 và Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tháng 12-1944, Đảng ta đã tạo ra các tiền đề cần thiết để tổ chức lực lượng quần chúng cách mạng ở cả 3 miền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, có lực lượng vũ trang của riêng mình, tận dụng thời cơ lịch sử của Chiến tranh Thế giới thứ 2 đi vào giai đoạn kết thúc – tổ chức cướp chính quyền và lãnh đạo làm nên Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Và sự thật đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Chính với tinh thần: toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải, để giữ vững quyền tự do, độc lập, mà quân và dân ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc chính phủ Pháp phải chấm dứt cuộc xâm lược ở Việt Nam.
Nhưng với dã tâm xâm chiếm Việt Nam, chính phủ Mỹ đã phá hoại việc thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết năm 1954, xúc tiến kế hoạch xâm nhập vào miền Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, làm căn cứ tiến công miền Bắc – tiền đồn của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á. Chế độ Mỹ – Ngụy đã đàn áp dã man những người cách mạng và phong trào cách mạng ở miền Nam, Mỹ mở rộng ném bom ra miền Bắc từ 1964. Trong bản Di chúc 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài, đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, được sự chi viện sức người, sức của của hậu phương lớn miền Bắc, được sự hỗ trợ tích cực của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của nhân dân các nước trên thế giới, quân và dân miền Nam đã anh dũng, kiên cường đấu tranh chống chế độ Mỹ – Ngụy, lần lượt đánh bại các chiến lược của Mỹ, buộc Mỹ phải ký hiệp định Pa-ri 1973, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân đồng minh của Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Sau khi ký Hiệp định Pa-ri, Chính phủ Mỹ vẫn ngoan cố thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, tiếp tục viện trợ về kinh tế, quân sự cho chính quyền Sài Gòn nhằm phá hoại Hiệp định Pa-ri, giành lại thế chủ động trên chiến trường. Hội nghị Trung ương lần thứ 21, tháng 7-1973, đã phân tích thành quả cách mạng miền Nam trong 18 năm qua, khẳng định con đường cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình huống nào cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên. Sau hội nghị, Bộ Chính trị đã chỉ đạo Quân ủy Trung ương lập tổ công tác đặc biệt – Tổ Trung tâm – để soạn thảo Kế hoạch chiến lược Giải phóng miền Nam trình Bộ Chính trị. Tổ trung tâm đã kiến nghị: Phải có những đòn quyết định, tiêu diệt tập đoàn chiến lược lớn của địch để nhanh chóng thay đổi cục diện chiến trường, tạo thế và bước nhảy vọt về thời cơ. Ngày 29-7-1974, ta đánh chi khu quân sự Thượng Đức, qua 10 ngày chiến đấu liên tục, ta đã làm chủ chi khu quân sự Thượng Đức. Tại hội nghị Bộ Chính trị ngày 30-9-1974, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đánh giá cao chiến thắng quân sự Thượng Đức: “Tôi đặc biệt lưu ý hội nghị về trận Thượng Đức. Qua đó thấy rõ: Khi không dựa được vào sự chi viện lớn của không quân Mỹ, khi không còn nhiều đạn pháo để sử dụng thì sức chiến đấu của quân Ngụy rất yếu. Cả trong tấn công cũng như phòng ngự. Cuối cùng, tôi khẳng định: thời cơ chiến lược đã đến, cần khẩn trương chuẩn bị mọi mặt, đi đôi với đấu tranh chính trị, cần có những trận quyết chiến chiến lược tiêu diệt lớn quân địch để dành chiến thắng. Hội nghị đã thông qua kế hoạch quyết tâm hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 – 1976 trên 2 hướng chiến lược là Tây Nguyên và Đông Nam bộ. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã ra đời trong hoàn cảnh như vậy và đã kết thúc bằng sự toàn thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử 26-4-1975 – 30-4-1975 giải phóng miền Nam, kéo theo các cuộc nổi dậy của quân và dân ở Đồng bằng sông Cửu Long trong ngày 1 và ngày 2 – 5- 1975, đưa tới việc giải phóng toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Bắc – Nam sum họp một nhà.
Đại thắng mùa Xuân 1975 là chiến công chói lọi, là thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Thắng lợi đó là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, mở ra kỷ nguyên mới đối với đất nước ta – kỷ nguyên độc lập, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đánh giá về tầm vóc thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ IV của Đảng ta đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Kính thưa đồng bào, đồng chí và quý vị đại biểu,
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định là chiến trường trọng điểm, nơi đầu sóng ngọn gió, đã “đi trước”, mở đầu cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ chống thực dân Pháp xâm lược với sự kiện Nam bộ Kháng chiến ngày 23 tháng 9 năm 1945 và đã “về sau” trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Trong suốt 30 năm chống thực dân, đế quốc xâm lược 1945-1975, Đảng bộ Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định luôn nhận thức sâu sắc và tâm huyết thực hiện bài học về xây dựng, mở rộng và nâng cao thế trận lòng dân, xây dựng vững chắc căn cứ lòng dân, luôn luôn gắn bó máu thịt với Nhân dân, phát huy sức mạnh vô địch của Nhân dân thì kháng chiến mới thắng lợi, cách mạng mới thành công; bài học về thường xuyên giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ, chú trọng xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ngày 02 tháng 7 năm 1976, Thành phố Sài Gòn – Gia Định chính thức vinh dự được mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân Thành phố trải qua quá trình 45 năm năng động, sáng tạo, đoàn kết, nghĩa tình, phấn đấu với quyết tâm cao để xây dựng, bảo vệ và phát triển Thành phố, xứng đáng với vinh dự là Thành phố mang tên Bác, Thành phố Anh hùng. Thành phố đã nhạy bén, bản lĩnh, năng động, sáng tạo, bám sát thực tiễn để vận dụng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; và từ thực tiễn sinh động của Thành phố sau những năm giải phóng, chúng ta đã góp phần quan trọng cùng Trung ương chuyển dần cơ chế, chính sách quản lý kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp sang cơ chế quản lý kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Năm 1982, năm 2002 và năm 2012, Bộ Chính trị đã ban hành các nghị quyết xác định vị trí và tầm quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh; đặc biệt, năm 2017, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 54 về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, đây là quyết sách quốc gia đột phá, đồng bộ, kịp thời, phù hợp tình hình phát triển của Thành phố sau 45 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và gần 35 năm đổi mới, giúp Thành phố vừa phát huy tốt hơn các thế mạnh truyền thống của mình trong quá trình phát triển, vừa phát huy tốt nhất các nguồn lực trong Nhân dân, trong các nhà đầu tư, đối tác quốc tế và người Việt Nam ở nước ngoài để phát triển Thành phố nhanh hơn, bền vững hơn vì cả nước, cùng cả nước.
Kính thưa đồng bào, đồng chí và quý vị đại biểu,
45 năm xây dựng, phát triển và hàn gắn vết thương chiến tranh, Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, như:
1. Kinh tế TPHCM tăng trưởng cao nhất cả nước, Thành phố luôn giữ vững vị trí đầu tàu kinh tế cả nước. Mặc dù chỉ chiếm 0,6% diện tích và 8,6% lao động cả nước, nhưng TPHCM đóng góp lớn nhất vào tổng sản phẩm nội địa, chiếm 23% GDP và đóng góp lớn nhất thu ngân sách cả nước, chiếm 27%).
2. Chất lượng tăng trưởng không ngừng được cải thiện, năng suất lao động bằng 2,7 lần năng suất bình quân cả nước.
3. TPHCM có Khu công nghệ cao với tổng đầu tư trên 7 tỷ USD, xuất khẩu trên 8 tỷ USD, trên 36.000 lao động và là Khu công nghệ cao thành công nhất cả nước. TPHCM có Khu Công viên phần mềm Quang Trung với 200 doanh nghiệp và đầu tư, hơn 11.000 kỹ sư, chuyên gia công nghệ thông tin, hơn 10.000 sinh viên CNTT học tập trong Khu công viên phần mềm Quang Trung. Doanh thu năm qua hơn 12.000 tỷ đồng, trong đó hơn 80% là từ doanh thu xuất khẩu và đây là công viên phần mềm thành công nhất cả nước.
4. TPHCM là địa phương đầu tiên có quyết định xây dựng TPHCM trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017 – 2025, đang được triển khai tích cực.
5. TPHCM cũng đang quy hoạch và triển khai xây dựng Khu đô thị sáng tạo phía Đông TPHCM với mục tiêu là động lực cho Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở TPHCM.
6. Công tác quy hoạch, quản lý và phát triển kết cấu hạ tầng đô thị đạt nhiều kết quả thiết thực. Đầu năm 2021, tuyến đường sắt đô thị số 1 Bến Thành – Suối Tiên sẽ đi vào hoạt động.
7. Văn hóa, giáo dục – đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày một phát triển, chất lượng cuộc sống của người dân được nâng cao, an sinh xã hội được đảm bảo, chăm lo đời sống cho các đối tượng nghèo, gia đình chính sách có nhiều tiến bộ.
8. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
9. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và vận động Nhân dân hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước, đã tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ và đạt nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống chính trị được củng cố, hoạt động ngày càng hiệu quả; cán bộ, công chức, đảng viên tin tưởng vào đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, lòng tin trong Nhân dân tiếp tục được củng cố, đóng góp quan trọng vào việc ổn định, bảo vệ và phát triển Thành phố. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII đã được các cấp ủy tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; thực hiện hiệu quả công tác tự phê bình, phê bình trong sinh hoạt Đảng, phát huy vai trò nêu gương của cấp ủy, nhất là người đứng đầu cấp ủy, thủ trưởng đơn vị, góp phần xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh. Việc thực hiện Quy định 1374 của Ban Thường vụ Thành ủy đã phát huy tinh thần trách nhiệm, ý thức tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, tạo chuyển biến tích cực, góp phần đấu tranh ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thành phố.
Tuy nhiên, với vị trí, vai trò và tiềm năng của Thành phố trong Vùng kinh tế trong điểm phía Nam, TPHCM cần phải giải quyết các hạn chế, yếu kém. Việc phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và Nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ thành phố còn hạn chế; việc giám sát, phản biện của Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội hiệu quả chưa cao; hiệu quả sử dụng các nguồn lực nhà nước và nguồn lực xã hội đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội thành phố chưa cao; công tác phòng, chống tham nhũng chưa đạt yêu cầu.
Kính thưa đồng bào, đồng chí và quý vị đại biểu,
Trong những tháng đầu năm 2020, tình hình dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do vi rút Cô-rô-na (Covid-19) diễn ra hết sức phức tạp, đã và đang có nhiều tác động đến Thành phố. Cùng với cả nước, Thành phố đã chủ động, quyết liệt, sáng tạo triển khai các biện pháp phòng, chống dịch bệnh Covid-19 và thực hiện tốt công tác chăm lo, hỗ trợ người nghèo, người có công, đối tượng bảo trợ xã hội, trẻ em, người bị mất việc do dịch bệnh…, góp phần bảo đảm an sinh xã hội trên địa bàn thành phố, chung tay cùng cả nước kiểm soát, ngăn chặn thành công lây nhiễm, không để xảy ra dịch ở TPHCM cũng như trên cả nước.
Hiện nay, TPHCM đang tích cực chuẩn bị giai đoạn: phục hồi sản xuất, kinh doanh và các hoạt động xã hội, đồng thời ngăn chặn lây lan Covid-19, không để xảy ra dịch. Trong bối cảnh đó, chúng ta vẫn phải tiếp tục chủ động phát huy mọi nguồn lực để hoàn thành Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ X, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết 16-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 và Nghị quyết 54 của Quốc hội về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh. Chúng ta cần tập trung triển khai quyết liệt các nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
1. Trong điều kiện bình thường mới, các ngành, các cấp cần nghiêm túc, quyết liệt phòng dịch bệnh Covid-19, để kiểm soát lây nhiễm, không để xảy ra dịch ở TPHCM là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế – xã hội năm 2020 và 2021.
2. Tập trung tổ chức thành công đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 – 2025 và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; lấy sự hài lòng của Nhân dân làm thước đo kết quả sự lãnh đạo của mình. Đảng bộ phải tập trung lãnh đạo để Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục không ngừng đổi mới, sáng tạo, phát triển toàn diện vì cả nước, cùng cả nước, vì hạnh phúc của Nhân dân và chịu trách nhiệm trước Nhân dân.
4. Tiếp tục giữ vững vai trò đầu tàu kinh tế của cả nước, đi đầu trong thực hiện mô hình tăng trưởng mới trong điều kiện bình thường mới. Phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở nghiên cứu và ứng dụng mạnh mẽ khoa học – công nghệ, thúc đẩy phong trào đổi mới sáng tạo và tăng năng suất lao động, là trung tâm khởi nghiệp sáng tạo lớn nhất cả nước, triển khai quy hoạch và xây dựng Khu đô thị sáng tạo tương tác cao phía Đông TPHCM (gồm quận 2, quận 9 và Thủ Đức), đi đầu trong việc tận dụng các cơ hội của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phát triển mạnh kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn.
5. Phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa – xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu. Khơi dậy khát vọng của Nhân dân thành phố, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, ý chí tự cường và truyền thống năng động, sáng tạo của Thành phố Hồ Chí Minh, phát huy vai trò nền tảng của văn hóa, xây dựng gia đình hạnh phúc để thành phố và đất nước phát triển bền vững. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ngang trình độ quốc tế ở các lĩnh vực ưu tiên. Không ngừng nâng cao chất lượng sống của Nhân dân thành phố.
6. Phát huy hiệu quả mọi nguồn lực xây dựng các hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; tập trung ưu tiên đầu tư các dự án hạ tầng giao thông và hạ tầng số với hệ thống thông tin di động thế hệ 5 (5G); triển khai hiệu quả Đề án Đô thị thông minh, tập trung triển khai nghiên cứu và ứng dụng trí tuệ nhân tạo, tạo động lực phát triển TPHCM.
7. Phát triển kinh tế – xã hội đi đôi với bảo đảm quốc phòng, an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc. Giữ vững ổn định, an ninh chính trị, trật tự – an toàn xã hội và bảo đảm quốc phòng trong mọi tình huống, không để bị động bất ngờ, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của thành phố.
Kính thưa đồng bào, đồng chí và quý vị đại biểu,
Kỷ niệm 45 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xin hứa với Bác sẽ tiếp tục noi gương Bác và các anh hùng liệt sĩ, đoàn kết, sáng tạo, bản lĩnh, vượt qua các khó khăn thách thức trong giai đoạn hiện nay. Kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân, vì độc lập tự do và toàn vẹn lãnh thổ; tiếp tục thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, cùng cả nước, vì cả nước, xây dựng TPHCM xứng đáng là thành phố anh hùng, thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu, thành phố có chất lượng sống tốt, văn minh, hiện đại, nghĩa tình.
Tôi xin kính chúc đồng bào, đồng chí và quý vị đại biểu mạnh khỏe, thành công và hạnh phúc.
Xin trân trọng cảm ơn!
Kỷ Niệm 45 Năm Ngày Giải Phóng Miền Nam, Thống Nhất Đất Nước (30/4/1975
(HNM) – Cách đây 45 năm, thực hiện tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc đi xa, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thu non sông về một mối. Về sự kiện lịch sử vĩ đại này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (diễn ra từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976) đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”. 45 năm qua, từ trang sử chói lọi ấy, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân tiếp tục đoàn kết một lòng tiến hành thành công công cuộc đổi mới đưa đất nước ra khỏi tình trạng đói nghèo, lạc hậu. Giờ đây bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam đang tiếp tục tỏa sáng trong thực hiện khát vọng xây dựng một đất nước Việt Nam thịnh vượng, hùng cường, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhân sự kiện lịch sử vĩ đại này, Báo Hànộimới giới thiệu loạt bài viết: “Kỷ niệm 45 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2020): Trang sử chói lọi, khát vọng hùng cường”. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Những quyết sách chiến lược
Xe tăng 980 của Trung đoàn Tăng – Thiết giáp 273, Mặt trận Tây Nguyên bắn sập và húc đổ cổng sắt Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 ngụy trong trận đánh giải phóng Buôn Ma Thuột, ngày 11-3-1975. Ảnh tư liệu1. Sau nhiều năm kháng chiến với biết bao hy sinh gian khổ, nhân dân Việt Nam đã giành những thắng lợi quan trọng. Đặc biệt, sau chiến thắng vang dội Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không cuối năm 1972, không còn con đường nào khác, đế quốc Mỹ phải trở lại bàn đàm phán, ký Hiệp định Paris (27-1-1973) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Thắng lợi này có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, bởi từ đây, Mỹ đã rút quân ra khỏi miền Nam, so sánh lực lượng giữa ta và địch thay đổi căn bản có lợi cho ta. Từ đây, cuộc kháng chiến bước sang giai đoạn mới, thời kỳ đấu tranh buộc địch thi hành Hiệp định Paris, tạo thế, tạo lực, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy giành toàn thắng.
Mặc dù đã ký Hiệp định Paris, nhưng Mỹ vẫn âm mưu tiếp tục dùng chính quyền và quân đội Sài Gòn làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới, biến miền Nam Việt Nam thành một nước với chế độ thân Mỹ, thực chất vẫn là thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Theo đó, các hành động chống phá Hiệp định Paris liên tiếp xảy ra. Từ thực tiễn đó, ngày 27-3-1973, Bộ Chính trị họp mở rộng, đánh giá tình hình thi hành Hiệp định Paris, đề ra phương hướng đấu tranh đối với Mỹ. Kết luận hội nghị, đồng chí Lê Duẩn – Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) khẳng định: Mỹ đã thực sự rút quân, nhưng chưa thực sự chấm dứt dính líu, ngụy còn ngoan cố phá hoại hiệp định. Ta cần tranh thủ xây dựng mọi mặt, đấu tranh quy trách nhiệm cho Mỹ, buộc đối phương phải thi hành hiệp định.
Như vậy, tuy Hiệp định Paris đã ký kết, nhưng miền Nam vẫn chưa có hòa bình. chính quyền Sài Gòn vẫn ngang nhiên vi phạm hiệp định, thực hiện nhiều hành động khủng bố trong vùng tạm chiếm và tiến hành lấn chiếm vùng giải phóng. Từ thực tế đó, vấn đề đặt ra cho Đảng là phải có những quyết sách mới để lãnh đạo cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Tháng 7-1973, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 21 (khóa III) được tổ chức, khẳng định: Con đường của cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực; nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới là tiếp tục thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; kẻ thù chính của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới vẫn là đế quốc Mỹ và tập đoàn thống trị tay sai của Mỹ; nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đấu tranh trên cả ba mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao; nhiệm vụ của miền Bắc đối với cách mạng miền Nam là phải tranh thủ những điều kiện thuận lợi hiện có, ra sức chi viện miền Nam…
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 21 (khóa III) là một trong những văn kiện lịch sử, có ý nghĩa rất quan trọng, là phương hướng chỉ đạo đưa cách mạng ở miền Nam vượt qua một trong những thời điểm cam go nhất của cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai. Nó là đường lối cơ bản chỉ đạo cách mạng và chiến tranh cách mạng ở miền Nam sau thắng lợi của Hội nghị Paris, làm chuyển biến tình hình cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong giai đoạn kết thúc chiến tranh từ cuối năm 1973 đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 toàn thắng.
2. Dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 21 (khóa III), những tháng cuối năm 1973, đầu năm 1974, quân dân ta ở miền Nam đã giành những thắng lợi rất quan trọng trên mặt trận quân sự, chính trị… Ta đã tạo được thế và lực mới cho cách mạng miền Nam phát triển.
Tháng 7-1974, đồng chí Lê Duẩn trực tiếp hướng dẫn Bộ Tổng Tham mưu khởi thảo “Kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam”. Bản dự thảo kế hoạch đề xuất tiến hành ba đòn chiến lược trên cả ba vùng, trong đó đô thị có tầm quan trọng quyết định, đặc biệt là Sài Gòn – Gia Định và Đà Nẵng. Hướng tiến công chủ yếu là Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam được chia làm hai bước: Bước một, năm 1975, mở cuộc tiến công rộng khắp ba vùng, đánh bại về cơ bản chương trình bình định của địch, diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng chủ lực đối phương. Bước hai, năm 1976, tổng công kích, tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Trong thời gian này, Trung ương Cục miền Nam và Quân ủy Miền gửi cho Ban Chấp hành Trung ương và Quân ủy Trung ương kế hoạch hoạt động mùa khô 1974-1975 với quyết tâm giành thắng lợi quyết định để tiến lên hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976.
Nhìn chung, ý tưởng và quyết tâm của hậu phương lớn với tiền tuyến gặp nhau ở điểm giải phóng hoàn toàn miền Nam trong thời gian ngắn nhất là trong một vài năm tới. Vấn đề còn lại là phương án hành động sao cho giành thắng lợi nhanh nhất, gọn nhất, bất ngờ nhất, ít tốn xương máu nhất.
Trong tháng 10 và tháng 12-1974, tập thể Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cùng các tướng lĩnh, cán bộ chủ chốt của chiến trường hai lần họp hội nghị thống nhất quyết tâm chiến lược và thông qua “Kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam”. Về quyết tâm chiến lược, ta hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong thời gian hai năm 1975-1976. Về kế hoạch chiến lược, ta xác định mục tiêu trong năm 1975 làm cho lực lượng ta lớn mạnh vượt bậc, mở nhiều đợt tiến công và nổi dậy làm cho lực lượng địch suy yếu nhanh chóng, tạo điều kiện chín muồi để tổng công kích – tổng khởi nghĩa trong năm 1976; mục tiêu trong năm 1976 là phát động tổng công kích – tổng khởi nghĩa, đánh lớn, đánh nhanh, diệt từng sư đoàn địch, đánh vào Sài Gòn là chỗ hiểm yếu nhất, giành thắng lợi cuối cùng. Ngoài kế hoạch cơ bản này, ta còn dự kiến một phương án: “Nếu thời cơ đến thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”. Trên thực tế, đây là một sáng tạo lớn trong nghệ thuật chỉ đạo chuẩn bị cuộc tổng tiến công trong thời kỳ kết thúc chiến tranh cũng như sau này trong việc điều hành cuộc tổng tiến công chiến lược.
Thắng lợi của toàn miền, nhất là của miền Đông Nam Bộ, đặc biệt là chiến thắng giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long cuối năm 1974, đầu năm 1975 càng cho thấy rõ khả năng thực tế của quân đội Sài Gòn, còn Mỹ rất khó quay trở lại. Điều đó thêm củng cố quyết tâm chiến lược mà ta đã dự kiến từ giữa năm 1974.
Sau khi đã hoàn thành chuẩn bị chiến lược cả về thế và lực, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 mở đầu từ ngày 4-3-1975 với Chiến dịch Tây Nguyên, tiếp đó là Chiến dịch giải phóng Huế – Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn – Gia Định với nhiều bước phát triển nhảy vọt và kết thúc thắng lợi vào ngày 30-4-1975.
Thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 đã chứng minh đường lối và phương pháp cách mạng đề ra trong Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 21 (khóa III) và tiếp sau đó là trong những hội nghị Bộ Chính trị (đặc biệt các hội nghị tháng 10, tháng 12-1974 và các hội nghị trong tháng 3-1975) là hoàn toàn đúng. Những quyết sách chiến lược và sự lãnh đạo, chỉ đạo chính xác, kịp thời, kiên quyết, táo bạo và sắc bén của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương là nhân tố quyết định dẫn tới thắng lợi của “Đại thắng xuân 1975”.
Năm tháng trôi qua, nhưng những quyết sách mang tầm chiến lược của Đảng, để thu non sông về một dải vào năm 1975 vẫn vẹn nguyên giá trị, mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
Kỷ Niệm 44 Năm Ngày Giải Phóng Miền Nam, Thống Nhất Đất Nước (30/4/1975
Ngày 30/4/1975, đại thắng mùa xuân đã làm thất bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược và ách thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc vẻ vang cuộc chiến tranh cứu nước lâu dài nhất, khó khăn nhất và vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân ta. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV tháng 12/1976 đánh giá: “Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”. Hay đánh giá của đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Trong quá trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, ba cái móc chói lọi bằng vàng: Tổng khởi nghĩa tháng Tám, chiến thắng Điện Biên Phủ và chiến thắng mùa xuân 1975, đại thắng mãi mãi sáng ngời trong sử sách. Nhân dân Việt Nam đã làm nên câu chuyện thần kì tưởng chừng không thể làm được giữa thế kỷ XX. Lần đầu tiên trong lịch sử, một dân tộc vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, kinh tế kém phát triển, đánh thắng những cường quốc, đế quốc chủ nghĩa chủ yếu bằng sức của chính mình, nêu một tấm gương anh dũng, bất khuất, trí tuệ, tài năng trước toàn thế giới”.
Hình 1: Bộ Chính trị chỉ đạo chiến dịch giải phóng Sài Gòn
Chiến thắng ngày 30/4/1975 là thành quả vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng, chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc. Quân và dân ta đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất cho Tổ quốc; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới, góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.
Vào cuối năm 1974 – đầu năm 1975, nhận thấy tình hình so sánh lực lượng ở Miền Nam có sự thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng ta, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Nhưng Bộ Chính trị nhấn mạnh “cả năm 1975 là thời cơ” và chỉ rõ “nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong năm 1975”. Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh cần tranh thủ thời cơ đánh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hóa, giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh. Sau chiến thắng của quân ta ở chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế-Đà Nẵng, Bộ Chính trị đã nhận định: “thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng Miền Nam” và đã đưa ra quyết định: “phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất giải phóng Miền Nam trước mùa mưa”, đồng thời chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định được Bộ Chính trị quyết định mang tên “chiến dịch Hồ Chí Minh”. Trước khi tấn công giải phóng Sài Gòn, quân ta đã tiến công Xuân Lộc và Phan Răng-đây là những căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch để bảo vệ Sài Gòn từ phía đông.
Hình 2: Bộ đội Sư đoàn 10 (Quân đoàn 3) đánh chiếm Sân bay Tân Sơn Nhất.
Vào lúc 17 giờ ngày 26/4, quân ta đã nổ súng mở đầu chiến dịch, năm cánh quân của ta đã vượt qua tuyến phòng thủ của địch để tiến vào trung tâm Sài Gòn, đánh chiếm các cơ quan đầu não của chúng. 10 giờ 45 phút ngày 30/4, xe tăng và bộ binh của ta tiến vào Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ Nội các của Sài Gòn, Dương Văn Minh vừa lên chức tổng thống ngày 28/4 đã phải tuyên bố đầu hàng quân ta không điều kiện. Đến 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên Dinh Độc Lập, báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Hình 3: Xe tăng quân giải phóng húc đổ cổng dinh Độc Lập
Đại thắng mùa xuân 1975 đã chứng minh trí tuệ và tài thao lược của Đảng ta trong lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh cách mạng, cũng như chứng minh tinh thần quật khởi của người dân Việt Nam trong đấu tranh chống ngoại xâm. Chiến thắng đã chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến ở nước ta, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước, đồng thời mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc, cả nước cùng tiến lên CNXH. Thắng lợi này đã đi vào lịch sử nước ta và của thế giới, như một trang sử chói lọi ở những năm 70 của thế kỷ XX, mang tầm quốc tế, tầm thời đại sâu sắc.
Hình 4: Bộ đội tiến vào treo cờ giải phóng trên Dinh Độc Lập
Đại thắng mùa xuân năm 1975, như nhận định của Đảng ta là một sự kiện quan trọng có tầm quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc, làm nức lòng bạn bè và nhân dân tiến bộ khắp năm châu bôn biển. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại đại hội lần thứ IV cũng chỉ rõ: “Đối với thế giới, thắng lợi của nhân dân ta đã đập tan cuộc phản công lớn nhất của tên đế quốc đầu sỏ chĩa vào các lực lượng cách mạng kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, đẩy lùi trận địa của chủ nghĩa đế quốc, mở rộng trận địa của CNXH, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của đế quốc Mỹ ở Đông Nam Á, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng, đẩy Mỹ vào tình thế khó khăn chưa từng thấy, làm yếu hệ thống đế quốc chủ nghĩa, tăng thêm sức mạnh và thế tiến công của các trào lưu cách mạng thời đại, đem lại lòng tin và niềm phấn khởi cho hàng trăm triệu người trên khắp trái đất đang đấu tranh vì hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ và CNHX”.
Cách mạng thế giới, đặc biệt phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, bao giờ cũng quanh co phức tạp nhưng không ngừng phát triển. Gần bốn thập kỷ qua, trong cục diện quốc tế đã mở ra một thời kỳ mới mà nhân dân tiến bộ gọi là “thời kỳ sau Việt Nam”. Việt Nam – ngọn cờ tiên phong, ngọn cờ vẫy gọi những người lao động nghèo khổ và các dân tộc bị áp bức trên thế giới đang đầy rẫy bất công và bạo ngược.
Đề Cương Tuyên Truyền Kỷ Niệm 45 Năm Ngày Giải Phóng Miền Nam, Thống Nhất Đất Nước (30/4/1975
I. Chặng đường lịch sử, chiến công oanh liệt của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước
1. Bối cảnh quốc tế và trong nước
Trên thế giới, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ có tiềm lực rất mạnh, nổi lên cầm đầu phe đế quốc, hiếu chiến và âm mưu bá chủ thế giới, từng bước khẳng định sự có mặt ở Đông Dương. Sau thất bại của thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ, chủ nghĩa thực dân cũ sụp đổ, đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Lúc này trên thế giới đã phân chia thành hai hệ thống đối đầu gay gắt bằng cuộc “chiến tranh lạnh” và chạy đua vũ trang quyết liệt. Hệ thống chủ nghĩa xã hội (XHCN), phong trào công nhân ở các nước tư bản, phong trào giải phóng dân tộc ở khắp nơi trên thế giới dâng cao.
Trong nước, sau chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng và bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam vẫn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Đấu đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trở thành nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân tộc ta.
2. Những bước phát triển của cuộc kháng chiến
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta trải qua gần 21 năm, là cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ và nhiều thách thức, ác liệt. Đảng và nhân dân ta phải đấu trí và đấu sức chống đế quốc giàu mạnh và hung bạo nhất trong phe đế quốc. Cuộc kháng chiến này đã trải qua nhiều giai đoạn, phải đối phó lần lượt với các kế hoạch, chiến lược của đế quốc Mỹ.
a. Giai đoạn từ tháng 7/1954 đến hết năm 1960: Đấu tranh giữ gìn lực lượng, chuyển dần sang thế tiến công, làm thất bại bước đầu phương thức chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ
.
Những chiến thắng oanh liệt trong kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đã buộc thực dân Pháp và can thiệp Mỹ phải ký Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Campuchia và Lào. Nhưng với những mưu đồ đã dự tính từ trước, đế quốc Mỹ trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevơ, hất cẳng Pháp, gạt bỏ những thế lực tay sai của Pháp, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, thực hiện chính sách thực dân mới, mưu đồ chia cắt lâu dài đất nước ta. Chính quyền Mỹ – Diệm tập trung thực hiện biện pháp “tố cộng”, “diệt cộng” đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước, trả thù những người kháng chiến cũ, tiêu diệt cơ sở cách mạng ở miền Nam, ban hành Luật 10/59 “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, biến cả miền Nam thành nơi tràn ngập nhà tù, trại giam, trại tập trung. Cách mạng miền Nam bị dìm trong biển máu.
Đứng trước tình thế mới, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo quân và dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Một là cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước. Hai là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà. Thực hiện nhiệm vụ trên, miền Bắc tích cực triển khai những công việc bộn bề sau chiến tranh, nhanh chóng tổ chức cuộc sống mới. Trong ba năm (1958-1960), chúng ta đã hoàn thành về cơ bản công cuộc cải tạo XHCN, căn bản xoá bỏ chế độ bóc lột, bước đầu xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội theo con đường đi lên CNXH, chuẩn bị một số nội dung cho cách mạng cả nước trong giai đoạn mới. Ở miền Nam, cuộc đấu tranh diễn ra vô cùng khó khăn, ác liệt, nhưng đại bộ phận nhân dân vẫn một lòng theo Đảng, bất khuất chống áp bức, khủng bố, bảo vệ lực lượng cách mạng. Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời, xác định rõ mục tiêu, phương pháp cách mạng miền Nam, mối quan hệ chiến lược của cách mạng hai miền, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới; phản ánh đúng nhu cầu của lịch sử, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam; định hướng và động viên nhân dân miền Nam vùng lên đấu tranh, tạo ra phong trào Đồng khởi (1959 – 1960), xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam, làm tan rã hàng loạt bộ máy của ngụy quyền ở các thôn, xã.
b. Giai đoạn từ đầu năm 1961 đến giữa năm 1965: Giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
Từ cuối năm 1960, đế quốc Mỹ thay đổi chiến lược, chuyển sang chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” đối phó với cách mạng miền Nam. Đó là chiến lược dùng quân đội ngụy tay sai làm công cụ tiến hành chiến tranh, càn quét, dồn dân vào ấp chiến lược, đưa 10 triệu nông dân miền Nam vào các trại tập trung, tách lực lượng cách mạng ra khỏi nhân dân. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chuyển sang giai đoạn mới, từ khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng, kết hợp song song cả đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, đánh địch bằng cả ba mũi giáp công, trên cả ba vùng chiến lược, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và tay sai. Ở miền Bắc, các mặt trận kinh tế, văn hoá, an ninh quốc phòng đều có bước phát triển mới. Quân và dân miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu và chi viện cho miền Nam.
c. Giai đoạn từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968: Đảng phát động toàn dân chống Mỹ cứu nước, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ ở miền Nam, đánh thắng cuộc phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ nhất ở miền Bắc.
Trước nguy cơ phá sản của “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, sử dụng quân đội Mỹ là lực lượng cơ động chủ yếu tiêu diệt bộ đội chủ lực ta; dùng ngụy quân, ngụy quyền để bình định, kìm kẹp nhân dân, âm mưu đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25 đến 30 tháng (từ giữa 1965 đến hết 1967), đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân.
Trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta đã đánh thắng quân xâm lược Mỹ ngay từ những trận đầu khi chúng vừa đổ bộ vào. Tiếp theo những trận thắng oanh liệt ở Núi Thành, Vạn Tường, Plâyme, Đất Cuốc, Bầu Bàng, ta lại đánh bại ba cuộc hành quân lớn của Mỹ vào miền Đông Nam Bộ, đánh thắng lớn ở các chiến trường Tây Nguyên, miền Tây khu V, Đường 9, đồng bằng Nam Bộ và các mục tiêu chủ yếu của địch ở các thành phố lớn. Quân dân miền Bắc tiếp tục đánh trả cuộc tiến công của Mỹ bằng không quân và hải quân, giành những thắng lợi lớn trên nhiều mặt, bảo đảm giao thông thông suốt, chi viện sức người, sức của ngày càng lớn cho miền Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn mới.
d. Giai đoạn từ năm 1969 đến năm 1973: Phát huy sức mạnh liên minh chiến đấu Việt Nam với Lào, Campuchia, làm thất bại một bước chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ hai ở miền Bắc, tạo thế mạnh trong đàm phán.
Đế quốc Mỹ thi hành chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, từng bước mở rộng chiến tranh sang Campuchia, Lào. Thủ đoạn xảo quyệt của Mỹ là thực hiện chiến tranh hủy diệt và chiến tranh giành dân, chiến tranh bóp nghẹt để làm suy yếu cuộc kháng chiến của nhân dân ta trên cả hai miền Nam – Bắc. Quân và dân ta phối hợp với quân, dân hai nước Lào, Campuchia đánh bại một bước quan trọng chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”. Những thắng lợi của chiến tranh cách mạng ba nước Đông Dương trong hai năm 1970-1971 đã tạo thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Nhờ chuẩn bị tốt lực lượng, nhằm đúng thời cơ, quân và dân ta đã liên tiếp giành thắng lợi lớn trên chiến trường, nhất là cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ở miền Bắc, nổi bật là đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 của Mỹ, làm thay đổi cục diện chiến trường, cục diện chiến tranh. Trong đàm phán, chúng ta cũng khôn khéo tiến công địch, phối hợp chặt chẽ giữa “đánh và đàm”, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari, rút hết quân Mỹ và quân các nước chư hầu ra khỏi miền Nam. So sánh lực lượng thay đổi hẳn, có lợi cho ta, tạo điều kiện cơ bản nhất để ta giành thắng lợi cuối cùng.
e. Giai đoạn từ cuối năm 1973 đến ngày 30/4/1975: Tạo thế và lực, tạo thời cơ, kiên quyết tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau khi ký Hiệp định Pari, mặc dù buộc phải rút hết quân nhưng đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục âm mưu dùng ngụy quân, ngụy quyền làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Mỹ tăng cường tiền của, vũ khí, phương tiện chiến tranh cho ngụy lấn đất, giành dân, khống chế nhân dân, thực hiện các hoạt động ngoại giao xảo quyệt để ngăn chặn sự phát triển của cách mạng miền Nam. Đến tháng 5/1973, xu thế chống phá Hiệp định Pari của địch ngày càng tăng. Chúng điên cuồng đánh phá hòng xoá bỏ vùng giải phóng của ta, đẩy lùi lực lượng cách mạng.
Tháng 7/1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 đã khẳng định con đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực và đề ra các nhiệm vụ lớn cho hai miền Nam – Bắc. Nửa cuối năm 1974, cuộc chiến tranh của quân và dân ta ở miền Nam chống lại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” đã giành được thắng lợi. Ta ngày càng mạnh lên, ngụy ngày càng suy yếu rõ rệt. Nước Mỹ lâm vào khủng hoảng nội bộ. Tháng 7/1974, Đảng ta chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, nếu thời cơ đến sẽ giải phóng miền Nam trong năm 1975. Thắng lợi toàn miền, nhất là của miền Đông Nam Bộ, đặc biệt là chiến thắng Phước Long cuối năm 1974 – đầu năm 1975 càng cho thấy thực tế suy yếu của quân ngụy Sài Gòn và khả năng Mỹ khó quay lại Việt Nam. Đảng ta nhận định thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 bắt đầu từ ngày 4/3 bằng ba đòn chiến lược: Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên; Chiến dịch giải phóng Huế – Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn – Gia Định kết thúc vào ngày 30/4. Qua gần 2 tháng chiến đấu với sức mạnh áp đảo về chính trị và quân sự, quân và dân ta đã giành được toàn thắng, kết thúc 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
3. Ý nghĩa lịch sử
– Đối với Việt Nam:
Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy ngàn năm của dân tộc. Nhân dân ta đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất cho đất nước; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; đánh dấu bước ngoặt quyết định trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập tự do, cả nước đi lên CNXH.
– Đối với thế giới:
Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc; mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới.
4. Nguyên nhân thắng lợi
Một là,
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Hai là,
nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân đã phát huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ, lao động quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH và vì quyền con người.
Ba là,
cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một lòng, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Bốn là,
kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Năm là,
đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia; đoàn kết quốc tế.
5. Bài học kinh nghiệm
Thứ nhất:
Xác định đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai:
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Thứ ba:
Vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt phương pháp đấu tranh cách mạng, phương thức tiến hành chiến tranh toàn dân và nghệ thuật quân sự chiến tranh toàn dân, xây dựng và phát triển lý luận chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Thứ tư:
Chủ động, nhạy bén, linh hoạt trong chỉ đạo chiến lược chiến tranh cách mạng và nghệ thuật tạo và nắm thời cơ giành những thắng lợi quyết định.
Thứ năm:
Phải luôn luôn chú trọng xây dựng Đảng trong mọi hoàn cảnh, nâng cao sức chiến đấu và phát huy hiệu lực lãnh đạo của Đảng.
II. Thành tựu sau 45 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
1. Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước. Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tháng 9/1975 đề ra nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước. Ngày 25/4/1976 cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung được tổ chức trên toàn quốc với hơn 23 triệu cử tri (98,8% tổng số cử tri) đi bầu. Quốc hội quyết định lấy tên nước là Cộng hoà XHCN Việt Nam (từ 2/7/1976). Quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng, Quốc ca là bài Tiến quân ca, Quốc huy là “Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thành phố Sài Gòn đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh.
Việc hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước đã tạo nên những điều kiện chính trị cơ bản để phát huy toàn diện sức mạnh phát triển đất nước, tạo điều kiện thuận lợi để cả nước đi lên CNXH, có những khả năng to lớn để bảo vệ Tổ quốc và mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới. Từ đó đến nay, nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thực hành dân chủ, phát huy sức sáng tạo của nhân dân, được quán triệt trong nhiệm vụ xây dựng một nhà nước pháp quyền XHCN thực sự của dân, do dân, vì dân. Quốc hội có những bước đổi mới quan trọng, từ khâu bầu cử đại biểu đến hoàn thiện cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động, làm tốt hơn chức năng lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, tăng cường và lắng nghe ý kiến cử tri. Nâng cao sức chiến đấu, vai trò, vị trí của Đảng cầm quyền, chú trọng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức được tăng cường. Chính phủ có nhiều cải tiến trong phương thức hoạt động, trong thực hiện cải cách hành chính theo tinh thần phục vụ nhân dân. Hệ thống chính trị được củng cố, phân định rõ hơn trách nhiệm và quyền hạn, đảm nhiệm ngày càng toàn diện hơn việc lãnh đạo, quản lý sự phát triển đất nước.
2. Kinh tế đạt được nhiều thành tựu quan trọng, văn hóa – xã hội có bước tiến bộ rõ nét. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, chịu hậu quả nặng nề của nhiều năm chiến tranh, lại bị bao vây cấm vận, Việt Nam đã vượt lên, phát triển kinh tế khá nhanh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế. Đất nước ta không những đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, phá được thế bao vây cấm vận, vượt qua những tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực và thế giới những năm 1997-1998 và cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu những năm gần đây mà vẫn giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Hàng hoá trên thị trường dồi dào, đa dạng và lưu thông tương đối thuận lợi. Kinh tế đối ngoại phát triển mạnh, mở rộng hơn trước về quy mô, hình thức, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội. Mức tăng trưởng GDP bình quân 5,9%/năm, giai đoạn 2016 – 2020 ước đạt 6,8%, là mức cao so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục được hoàn thiện. Quan hệ sản xuất ngày càng phù hợp hơn, tạo điều kiện phát triển lực lượng sản xuất. Các loại thị trường từng bước được hình thành và phát triển, gắn kết ngày càng tốt hơn với thị trường thế giới.
Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Từ năm 2008 chúng ta đã đạt mức thu nhập bình quân đầu người trên 1.000 đô la, vượt qua ngưỡng nước nghèo chậm phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều năm 2019 giảm còn dưới 4%. Chỉ số phát triển con người (HDI) thuộc nhóm trung bình cao của thế giới. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xoá nạn mù chữ. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Tuổi thọ của người dân ngày càng tăng. Phúc lợi và an sinh xã hội được coi trọng và từng bước mở rộng. Công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng được Đảng, Nhà nước và cả xã hội quan tâm. Vấn đề tạo điều kiện ưu đãi về tín dụng, đào tạo nghề, phát triển sản xuất, xoá đói giảm nghèo cho đối tượng chính sách được quan tâm. Công tác giải quyết việc làm và xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả tốt; sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hoá về loại hình trường lớp; khoa học công nghệ và tiềm lực khoa học – công nghệ có bước phát triển; công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có tiến bộ; những giá trị văn hoá đặc sắc của dân tộc được kế thừa và phát triển, giao lưu hợp tác văn hoá với nước ngoài được mở rộng, các tài năng văn hoá – nghệ thuật được khuyến khích; chính sách phát triển nguồn nhân lực được chú trọng.
3. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được mở rộng, củng cố và tăng cường; chính trị – xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được chú trọng và đạt được kết quả quan trọng.
III. Phát huy tinh thần cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN
1. Phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu của Đại thắng mùa Xuân 1975,
động viên toàn thể dân tộc Việt Nam vững bước trên con đường xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, như: đấu tranh trong lĩnh vực tư tưởng bảo vệ Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và an ninh chính trị, lao động sản xuất, nghiên cứu, học tập, xả thân cứu dân trong thiên tai, thảm họa, đoàn kết dân tộc, tương thân tương ái, gìn giữ phát huy bản sắc văn hóa dân tộc …
2. Phát huy cao độ tinh thần quyết chiến, quyết thắng của Đại thắng mùa Xuân 1975 để vượt qua mọi khó khăn, thử thách,
không cam chịu đói nghèo, lạc hậu, vươn lên tiến kịp thời đại, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, có vị thế xứng đáng trên thế giới. Đó là khát vọng thiêng liêng của dân tộc và cũng mãnh liệt như ý chí giành độc lập, thống nhất Tổ quốc. Để thực hiện khát vọng đó, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta hãy nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức trước mắt, thi đua lao động, sản xuất, học tập và công tác tốt, góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội Đảng các cấp và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.
3. Phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là động lực chủ yếu, là nhân tố quan trọng, bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự nghiệp đổi mới.
Toàn dân đoàn kết, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, hoàn cảnh, chung sức, đồng lòng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tăng cường giáo dục giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc; phát huy nội lực của đất nước với sự giúp đỡ, hợp tác với các nước; giải quyết hài hòa các nhiệm vụ đối nội và đối ngoại. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
5.
Giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng con người mới
.
Đảng, Nhà nước và nhân dân đặt niềm tin vào thế hệ trẻ sẽ nối tiếp xứng đáng sự nghiệp của các thế hệ đi trước trong điều kiện mới, tiến quân vào khoa học và công nghệ, vươn tới những đỉnh cao của trí tuệ loài người, nâng tầm văn hóa trong cuộc sống, năng động sáng tạo trong học tập, lao động, kinh doanh, trong nghiên cứu khoa học, công nghệ và các hoạt động văn hóa, xã hội, trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh và quốc phòng. Thế hệ thanh niên trước đây đã đảm đương xuất sắc vai trò xung kích trong Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và các cuộc kháng chiến chống đế quốc; ngày nay là lực lượng xung kích, đi đầu trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
6. Phát huy tri thức, kinh nghiệm quân sự, công tác tư tưởng trong Đại thắng mùa Xuân 1975 vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Quốc phòng vững mạnh sẽ góp phần trực tiếp vào việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, xã hội, bảo đảm và tạo điều kiện quan trọng cho việc thực hiện những mục tiêu chiến lược của đất nước. Kế thừa những tri thức, kinh nghiệm quân sự, công tác tư tưởng trong Đại thắng mùa Xuân 1975 vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Các cấp, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục quốc phòng – an ninh; nâng cao ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho mọi công dân; thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 28 –NQ/TW ngày 25/10/2013 của Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình mới.
Kỷ niệm 45 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là dịp để chúng ta ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc, nhìn lại chặng đường phấn đấu xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời nhận thức sâu sắc hơn giá trị, bài học kinh nghiệm được tổng kết từ thực tiễn đấu tranh của dân tộc nhằm tiếp thêm sức mạnh, ý chí quyết tâm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
IV. MỘT SỐ KHẨU HIỆU TUYÊN TRUYỀN
1. Nhiệt liệt chào mừng 45 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2020)!
2. Đại thắng mùa Xuân 1975- Sức mạnh của ý chí thống nhất đất nước và khát vọng hòa bình!
3. Tinh thần Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4) và Ngày Quốc tế Lao động (1/5) bất diệt!
4. Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh!
5. Quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng !
6. Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm!
7. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm!
8. Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!
Cập nhật thông tin chi tiết về Toàn Văn Phát Biểu Của Bí Thư Thành Ủy Tphcm Nguyễn Thiện Nhân Tại Lễ Kỷ Niệm 45 Năm Ngày Giải Phóng Miền Nam, Thống Nhất Đất Nước trên website Ictu-hanoi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!