Giải Phóng Miền Nam Năm Bao Nhiêu / Top 4 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Ictu-hanoi.edu.vn

Quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam

Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thăm Quân Giải phóng miền Nam tại miền Đông Nam Bộ. (Ảnh tư liệu – theo Báo QĐND)

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để lại cho chúng ta nhiều bài học quý giá; trong đó có bài học về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, mà việc thành lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam cách đây 50 năm là một sáng tạo điển hình của nghệ thuật tổ chức chỉ đạo chiến tranh nhân dân Việt Nam của Đảng ta.

Thực hiện kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ hai (1961-1965) của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) là đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang ở hai miền Nam – Bắc; trong đó, tập trung xây dựng lực lượng vũ trang miền Nam đủ mạnh, để từng bước đánh bại từng chiến lược, đánh đổ từng bộ phận, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, ngày 15-2-1961, tại chiến khu Đ (miền Đông Nam Bộ), Quân giải phóng miền Nam (QGPMN) Việt Nam được thành lập, đánh dấu bước phát triển mới về tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân. QGPMN đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất về mọi mặt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và sự chỉ huy thống nhất của Bộ Quốc phòng – Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, trực tiếp là Trung ương Cục miền Nam và Ban Quân sự thuộc Trung ương Cục. QGPMN có nhiệm vụ chủ yếu là làm nòng cốt cho toàn dân tiến hành đấu tranh vũ trang, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, góp phần thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Ngay sau khi ra đời, QGPMN bám sát phương châm phát triển lực lượng, cùng toàn dân đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ (1961-1965). Thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng, QGPMN tập trung xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích; trong đó, chú trọng phát triển bộ đội chủ lực cả về biên chế, tổ chức và vũ khí, trang bị. Chỉ sau một năm thành lập (1962), QGPMN đã xây dựng được 2 trung đoàn bộ binh ở miền Đông Nam Bộ và 3 trung đoàn bộ binh ở Quân khu 5. Đó là những đơn vị bộ đội chủ lực đầu tiên đặt nền móng cho QGPMN không ngừng phát triển lớn mạnh. Các đơn vị đã thực hiện tốt việc kết hợp vừa xây dựng, vừa đẩy mạnh hoạt động tác chiến với nhiều trận đánh quy mô vừa và nhỏ, tiêu biểu là trận đánh Ấp Bắc (Mỹ Tho) tháng 1-1963, giành thắng lợi, mở ra phong trào “Thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công” trên toàn chiến trường miền Nam. Từ đánh tập trung quy mô đại đội, tiểu đoàn, phát triển lên quy mô trung đoàn; trong chiến dịch Bình Giã (từ ngày 2-12-1964 đến ngày 3-1-1965), lần đầu tiên ta sử dụng 2 trung đoàn bộ binh tiến công, đánh bại các biện pháp chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của địch. Tiếp đó, QGPMN mở chiến dịch Đồng Xoài (từ ngày 10-5 đến ngày 22-7-1965) và chiến dịch Ba Gia (từ ngày 28-5 đến ngày 20-7-1965) giành thắng lợi, đánh dấu bước phát triển mới về tổ chức, chỉ huy và trình độ tác chiến tập trung, làm thất bại các biện pháp chiến lược của địch, góp phần cùng toàn dân đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.

QGPMN tiếp tục phát triển lực lượng, đẩy mạnh hoạt động tác chiến, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ (1965-1968). Để cứu vãn tình thế thất bại trên chiến trường, đế quốc Mỹ vội vàng đưa quân vào miền Nam Việt Nam. Lực lượng này được trang bị hiện đại, có hoả lực mạnh, sức cơ động cao và là đối tượng tác chiến của QGPMN. Để giành thắng lợi trước đối tượng mới, QGPMN đã tích cực nghiên cứu nắm địch, đồng thời chủ động phát triển nhanh lực lượng từ quy mô 5 trung đoàn lên 6 sư đoàn, bố trí thành ba khối chủ lực cơ động, triển khai hợp lý trên các chiến trường. Quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, QGPMN đã đẩy mạnh tác chiến tập trung của các đơn vị bộ đội chủ lực, kết hợp với tác chiến rộng khắp quy mô vừa và nhỏ của lực lượng dân quân du kích, để thắng ngay trận đầu, giành thắng lợi từng bước tiến tới làm thất bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Những chiến thắng liên tiếp: Vạn Tường (ngày 18-8-1965), đánh bại cuộc hành quân “tìm diệt” quy mô lớn của đế quốc Mỹ, Chiến dịch Plây Me (từ ngày 19-10 đến ngày 26-11-1965) tiêu diệt gần hết và đánh thiệt hại 2 tiểu đoàn kỵ binh và diệt 1 chiến đoàn cơ giới của Mỹ, 1 tiểu đoàn bộ binh nguỵ, phá 89 xe quân sự, bắn rơi 59 máy bay. Điều đó chứng minh rằng, QGPMN đủ sức đánh thắng quân đội viễn chinh Mỹ và đồng minh, dù chúng được trang bị vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại. Thắng lợi kế tiếp của Chiến dịch Bàu Bàng-Dầu Tiếng mở ra phong trào “Tìm Mỹ mà diệt”, “Nắm thắt lưng Mỹ mà đánh”. Phát triển thế tiến công, QGPMN đánh bại liên tiếp hai cuộc phản công chiến lược (mùa khô 1965-1966, 1966-1967) và đánh bại cuộc hành quân Gian-xơn-xi-ty (từ ngày 22-2 đến ngày 15-4-1967), bẻ gẫy hai gọng kìm “tìm diệt” và “bình định” của 45.000 quân Mỹ… Trước tình thế có lợi cho cách mạng, Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng quyết tâm đẩy mạnh tiến công giành thắng lợi quan trọng về mặt quân sự. Theo đó, QGPMN thực hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) ở nhiều thành phố, thị xã, thị trấn miền Nam, trọng tâm là Huế, Sài Gòn-Gia Định, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, hỗ trợ nhân dân nổi dậy, giải phóng 1,4 triệu dân; giáng một đòn quyết định làm thất bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, “phi Mỹ hóa” cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Pa-ri. Có thể nói, đây là thời kỳ phát triển cách đánh phong phú, đa dạng và sáng tạo của QGPMN.

QGPMN thực hiện tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, cùng toàn dân đánh bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của đế quốc Mỹ (1969-1975). Các chiến lược, chiến thuật của Mỹ bị khủng hoảng nghiêm trọng, buộc chúng phải thay đổi phương thức tác chiến “tìm diệt” sang “quét và giữ”, tạo ra những vùng trắng ở ven đô thị, nhất là Sài Gòn, nhằm bảo vệ an toàn trung tâm đầu não; đồng thời, thực hiện Chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, đánh phá miền Bắc, xâm lược Lào, Cam-pu-chia, với ý đồ kết thúc chiến tranh có lợi cho Mỹ. Trong khi đó, QGPMN gặp nhiều khó khăn: lực lượng bị tổn thất chưa kịp khôi phục, không tiếp tế được vật chất hậu cần do bị đánh phá liên tục… Để duy trì lực lượng tiếp tục chiến đấu, QGPMN tổ chức thành nhiều bộ phận đứng chân ở các vùng, miền khác nhau (vùng lõm căn cứ đồng bằng, vùng giáp ranh hoặc căn cứ miền núi).

Trong bối cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thư kêu gọi quân và dân cả nước quyết tâm chiến đấu “Vì độc lập, vì tự do, đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào”. Tiếp đó, tháng 4-1969, Bộ Chính trị ra Nghị quyết “Về tình hình và nhiệm vụ mới”, nhằm động viên quân và dân hai miền Nam – Bắc, phát triển thế tiến công, tiến lên giành thắng lợi quyết định. Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh quyết định gấp rút xây dựng các lực lượng vũ trang lên một bước mới; trong đó, tập trung xây dựng các đơn vị chủ lực QGPMN. Bộ Tổng tư lệnh điều động nhiều đơn vị với đủ quân số và vũ khí, trang bị từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam và điều chỉnh các đơn vị chủ lực đứng chân ở từng địa bàn chiến lược, nhất là trên hướng trọng điểm. QGPMN được tiếp thêm sức mạnh, tiếp tục phát triển, nâng cao sức mạnh chiến đấu, giữ vững thế có lợi trên các chiến trường; đồng thời, tích cực phối hợp tác chiến với quân và dân hai nước Lào, Cam-pu-chia, liên tiếp giành thắng lợi, làm thay đổi cục diện chiến tranh ở ba nước Đông Dương. Đối với chiến trường miền Nam, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương phát triển thế tiến công chiến lược, nhằm thay đổi cục diện chiến tranh có lợi cho ta. Thực hiện kế hoạch tác chiến năm 1972 của Quân uỷ Trung ương, QGPMN mở Cuộc tiến công chiến lược năm 1972, điển hình là các chiến dịch: Trị – Thiên (từ ngày 30-3 đến ngày 27-6), Bắc Tây Nguyên (từ ngày 30-3 đến ngày 5-6), Nguyễn Huệ (từ ngày 31-3-1972 đến ngày 28-1-1973)… Thắng lợi của Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 đã buộc chính quyền Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri (tháng 1-1973), cam kết tôn trọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút hết quân Mỹ và đồng minh ra khỏi miền Nam Việt Nam. Tranh thủ thời cơ, tháng 10-1973, Bộ Chính trị quyết định phát triển lực lượng chủ lực từ quy mô sư đoàn lên quy mô quân đoàn 1, có nhiều vũ khí, trang bị hiện đại, bảo đảm chiến đấu liên tục, dài ngày. Đây là sự phát triển vượt bậc về quy mô tổ chức, vũ khí trang bị và trình độ tác chiến, chuẩn bị cho QGPMN mở các chiến dịch tiến công, hiệp đồng binh chủng tiêu diệt lớn quân địch trên toàn chiến trường miền Nam, nhằm sớm kết thúc chiến tranh. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình chiến trường miền Nam, trong nước, thế giới, nhất là khả năng quay trở lại của quân Mỹ, Bộ Chính trị đã hạ Quyết tâm chiến lược: mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy quy mô lớn vào mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Thực hiện quyết tâm đó, QGPMN cùng với quân và dân cả nước tích cực tạo lực, tạo thế, chủ động mở Chiến dịch Tây Nguyên, chọc thủng tuyến phòng thủ chiến lược của địch, tạo đà cho QGPMN liên tiếp mở các chiến dịch: Trị – Thiên, Huế – Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ ngày 26 đến 30-4-1975) giành thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh là một minh chứng cho sự lớn mạnh của QGPMN về trình độ tổ chức, chỉ huy, hiệp đồng tác chiến với các quân chủng, binh chủng, kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng, thực hiện trận quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh.

Trải qua 14 năm (1961-1975) xây dựng và chiến đấu, QGPMN – bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam – đã làm tròn nhiệm vụ chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trực tiếp là Trung ương Cục miền Nam, Quân uỷ và Bộ Tư lệnh Miền, QGPMN đã phát huy truyền thống, bản chất cách mạng cao đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam, vừa xây dựng, vừa chiến đấu, hoàn thành vẻ vang sứ mệnh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Ngày nay, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới rất nặng nề, đã và đang đặt ra yêu cầu cấp thiết đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”; trước tiên, xây dựng lực lượng Hải quân, Phòng không-Không quân, Thông tin liên lạc, Tác chiến điện tử và Trinh sát kỹ thuật hiện đại. Đồng thời, xây dựng Quân đội nhân dân có số lượng hợp lý, chất lượng tổng hợp cao; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, làm nòng cốt trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân; sẵn sàng chuyển hóa thành thế trận chiến tranh nhân dân phát triển ở trình độ cao khi đất nước có chiến tranh. Cùng với đó, phải tập trung đầu tư nghiên cứu phát triển khoa học quân sự, lý luận nghệ thuật tác chiến của các quân chủng, binh chủng và các lực lượng, đáp ứng yêu cầu của chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao; đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, tăng cường cơ sở vật chất-kỹ thuật, bảo đảm cho các lực lượng của quân đội từng bước hiện đại. Trước mắt, tập trung đổi mới công tác huấn luyện-đào tạo, nâng cao chất lượng xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, để thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, không để bị động bất ngờ trong mọi tình huống, theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã xác định.

và Thượng tá, ThS. ĐỖ HẢI ÂU

1- Quân đoàn 1 ở hậu phương miền Bắc, thành lập 10-1973; Quân đoàn 2 ở Trị-Thiên, thành lập tháng 5-1974; Quân đoàn 3 ở Tây Nguyên, thành lập tháng 3-1975; Quân đoàn 4 ở Đông Nam Bộ, thành lập tháng 7-1974.

Kỷ Niệm 50 Năm Ngày Thành Lập Quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (15

Sau thất bại nặng nề trong âm mưu phá hoại Hiệp định Genève, chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam thành pháo đài chống cộng bất khả xâm phạm, đánh dấu bằng sự bùng nổ Phong trào Đồng khởi của nhân dân trên toàn miền Nam và sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) vào 20-12-1960, Hoa Kỳ vẫn không từ bỏ tham vọng của mình và tiếp tục tìm kiếm chiến lược quân sự mới để đối phó.

Luật sư Nguyễn Hữu Thọ thăm hỏi Quân Giải phóng miền Nam. (Ảnh tư liệu)

Chính thức nhậm chức tại Nhà Trắng từ 20-1-1961, Tổng thống Hoa Kỳ Kennedy đã thay thế chiến lược Trả đũa ồ ạt của Eisenhower bằng chiến lược Phản ứng linh hoạt. Chiến lược quân sự toàn cầu mới này gồm 3 loại hình là Chiến tranh tổng lực, Chiến tranh cục bộ và Chiến tranh đặc biệt. Ngày 28-1-1961, kế hoạch ứng dụng chiến lược Chiến tranh đặc biệt tại miền Nam Việt Nam đã được Chính phủ Hoa Kỳ thông qua.

Mục đích của chiến lược Chiến tranh đặc biệt là chống lại chiến tranh du kích, chiến tranh giải phóng ở miền Nam bằng sự phối hợp toàn diện các hoạt động quân sự, chính trị, kinh tế và tâm lý thông qua lực lượng chính quyền, quân đội của Việt Nam Cộng hòa (VNCH) kết hợp với sự huấn luyện, cố vấn, chỉ huy và trang bị kỹ thuật, vũ khí, phương tiện chiến tranh do Hoa Kỳ viện trợ.

Biện pháp chủ yếu của chiến lược Chiến tranh đặc biệt là mở các cuộc hành quân càn quét, đánh phá nhằm gom dân vào 16.000 “ấp chiến lược” trên tổng số 17.000 thôn ấp ở miền Nam để “tát nước bắt cá”, coi đó là “quốc sách”, là “xương sống” của chiến lược; đồng thời dùng quân chủ lực của VNCH dưới sự yểm trợ của các đơn vị máy bay, xe tăng Hoa Kỳ sử dụng các chiến thuật tân kỳ như “trực thăng vận”, “thiết xa vận” tiến hành các cuộc hành quân để tiêu hao, tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng, đẩy cộng sản ra khỏi lãnh thổ Nam Việt Nam.

Nhằm kịp thời đối phó với chiến lược quân sự mới của Hoa Kỳ, đồng thời tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng miền Nam tiến lên, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (BCHTW Đảng) ngày 23-1-1961 đã quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam (gọi tắt là Cục R) thay thế Xứ ủy Nam Bộ, là một bộ phận của BCHTW Đảng, để chỉ đạo trực tiếp ở miền Nam.

Đặc biệt, Chỉ thị ngày 31-1-1961 và Nghị quyết đầu tháng 2-1961 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ quân sự trong 5 năm 1961-1965 và phương hướng nhiệm vụ của cách mạng miền Nam (sau đó được Nghị quyết của Hội nghị Bộ Chính trị tháng 12-1962 bổ sung thêm) đã chủ trương chuyển từ khởi nghĩa từng phần phát triển lên thành chiến tranh cách mạng trên quy mô toàn miền, đồng thời đề ra những biện pháp chiến lược hết sức quan trọng, bao gồm:

– Duy trì và đẩy mạnh đấu tranh chính trị cả ở nông thôn và thành thị, đẩy mạnh đấu tranh quân sự lên ngang tầm với đấu tranh chính trị để kịp thời giáng trả các cuộc phản kích của địch, giữ vững thế trận ở vùng nông thôn.

– Đẩy mạnh việc xây dựng lực lượng vũ trang cả về số lượng và chất lượng, cả lực lượng tại chỗ và các khối cơ động; đồng thời củng cố một số căn cứ địa, xây dựng hậu phương tại chỗ tạo địa bàn đứng chân vững chắc cho các khối chủ lực.

– Phát triển chiến tranh du kích, đánh phá những nơi xung yếu như kho tàng, sân bay, bến cảng, các trục giao thông huyết mạch; tăng cường hoạt động chiến đấu của lực lượng chủ lực, nâng cao trình độ tác chiến tập trung.

– Vận dụng phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị phù hợp đặc điểm của ba vùng chiến lược: vùng rừng núi lấy đấu tranh quân sự là chính, vùng nông thôn đồng bằng coi trọng cả đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ngang nhau, vùng thành thị thì đẩy mạnh đấu tranh chính trị; kết hợp 3 mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận; tập trung mũi nhọn vào nhiệm vụ chống càn quét để làm phá sản chương trình lập “ấp chiến lược” của địch.

Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và quyết định của Quân ủy Trung ương, Trung ương Cục miền Nam đã tổ chức Hội nghị quân sự tại Chiến khu Đ vào ngày 15-2-1961 để thống nhất các lực lượng vũ trang ở miền Nam. Kết quả là lực lượng Giải phóng quân miền Nam Việt Nam, gọi tắt là Quân Giải phóng miền Nam (QGPMN) được thành lập trên cơ sở thống nhất các lực lượng vũ trang ở miền Nam, bao gồm lực lượng ở lại không đi tập kết, lực lượng mới tham gia tại chỗ và lực lượng đi tập kết đã quay lại miền Nam hoạt động.

Đại đội súng cối 82 ly của du kích-Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam. (Ảnh tư liệu)

Về mặt quân sự, QGPMN là một bộ phận của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN), chịu sự lãnh đạo trực tiếp từ trên xuống của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, Quân ủy và Bộ Tư lệnh QGPMN, Quân khu ủy và các Bộ Tư lệnh QGPMN ở các quân khu, Đảng ủy quân sự và Bộ Chỉ huy quân sự các tỉnh, thành phố tại miền Nam. Vì thế, lực lượng bộ đội từ miền Bắc tăng cường vào Nam chiến đấu, kể từ năm 1963, nghiễm nhiên cũng là bộ đội thuộc biên chế QGPMN, chứ không phân biệt quân đội hai miền Nam-Bắc như quan điểm của Hoa Kỳ và VNCH.

Về mặt chính trị, QGPMN là lực lượng vũ trang của MTDTGPMNVN giai đoạn 1961-1969 và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CPCMLTCHMNVN) giai đoạn 1969-1976; vì vậy, QGPMN chịu sự lãnh đạo tối cao từ trên xuống của Bộ Chính trị, BCHTW của Đảng Lao động Việt Nam, Trung ương Cục miền Nam của Đảng Nhân dân Cách mạng miền Nam (thành lập vào ngày 1-1-1962), MTDTGPMNVN và CPCMLTCHMNVN.

Kể từ khi thành lập, lực lượng QGPMN không ngừng lớn mạnh và trưởng thành về nhiều mặt. Ngay trong năm 1961, Trung ương đã giúp xây dựng được 12 tiểu đoàn cho cả Khu V và Nam Bộ. Ngoài lực lượng và trang bị tại chỗ, sự chi viện của miền Bắc là nguồn bổ sung rất quan trọng cho sức mạnh của QGPMN. Chẳng hạn, năm 1963 có trên 40.000 cán bộ, chiến sĩ và 1.430 tấn vũ khí từ miền Bắc được đưa vào miền Nam; năm 1964 con số đó là 17.427 cán bộ, chiến sĩ và 3.435 tấn vũ khí (Lê Duẩn-Tiểu sử, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 297 và 314). Theo một số liệu thống kê, bộ đội chủ lực của QGPMN vào tháng 12-1974 khoảng 290.000 người, trong đó có chừng 90.000 người miền Nam.

Trong quá trình chiến đấu, QGPMN đã làm nên nhiều trận đánh nổi tiếng, phối hợp mặt trận đấu tranh chính trị giành được những thắng lợi quyết định, góp phần to lớn cùng cả nước đánh bại lần lượt các chiến lược quân sự then chốt của Hoa Kỳ và VNCH: Chiến tranh đặc biệt (1961-1965), Chiến tranh cục bộ (1965-1968), Việt Nam hóa chiến tranh (1969-1973); buộc Hoa Kỳ phải chấp nhận ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương ngày 27-1-1973, rồi tiến lên đánh bại hoàn toàn chế độ VNCH, giải phóng miền Nam vào 30-4-1975 với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Sau kỳ họp thứ nhất của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất (24-6-1976 – 3-7-1976), cùng với sự hoàn thành thống nhất về mặt Nhà nước, lực lượng quân đội cũng đi đến thống nhất dưới tên chung là QĐNDVN. Từ đây, tên gọi QGPMN đã trở thành quá khứ, song vẫn luôn còn đó lịch sử của 15 năm đấu tranh đầy hy sinh, mất mát, gian khổ nhưng anh dũng của lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam (1961-1976).

QGPMN đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của dân tộc giao phó, xứng đáng với 7 chữ vàng “Giải phóng quân anh dũng chiến thắng” được in trên lá quân kỳ do MTDTGPMNVN trao tặng ngay từ ngày thành lập. Hình ảnh hiên ngang, bất khuất, kiên cường của các chiến sĩ QGPMN mãi mãi in sâu vào văn chương, thơ ca, nhạc họa và là tượng đài trong tâm trí của nhân dân Việt Nam, trong sự ngưỡng mộ của nhân loại yêu chuộng hòa bình và công lý.

Sự Thật Về Cuộc Di Tản Trước Giải Phóng Miền Nam Năm 1975

Trước thời điểm giải phóng một vài tháng, người Mỹ đã phao tin về một “cuộc thảm sát đẫm máu” khủng khiếp có thể sẽ xảy ra ở Sài Gòn nếu Việt Cộng chiếm được thành phố. Mỹ khẳng định sẽ có khoảng từ 150.000 – 200.000 người sẽ trở thành nạn nhân của những cuộc trả thù. Những tưởng tượng về một cuộc thảm sát đẫm máu đó đã lan truyền rộng, không chỉ trong giới sĩ quan của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, nhân viên làm việc cho Mỹ, mà còn lan tới những người phục vụ cấp thấp sống dựa vào đồng đô-la Mỹ. Từ gái bar phục vụ lính Mỹ tới đầu bếp, lái xe làm việc cho các gia đình người Mỹ, các bác sĩ, kỹ sư và những thanh niên chỉ đơn thuần là học tại Mỹ cũng đều sợ mình sẽ là mục tiêu tấn công.

Cụ thể, chính quyền Thiệu phối hợp với Washington gieo rắc những thông tin như: 12 cảnh sát Việt Nam Cộng hòa bị diễu trần truồng qua các đường phố khi quân giải phóng chiếm Đà Nẵng, rồi sau đó bị chém đầu từng người một; Giám mục nhà thờ Buôn Ma Thuột bị Việt Cộng bắt và bị chặt thành 3 mảnh; 300 người bị đánh bằng gậy cho tới chết ở chợ Buôn Ma Thuột. Trước giải phóng, tất cả người dân Sài Gòn đều bị tuyên truyền và truyền miệng những câu chuyện kiểu như vậy do Mỹ Thiệu dựng lên.

Nhân viên và binh lính Mỹ vội vã lên một chiếc trực thăng của Hải quân Mỹ trong cuộc di tản Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn, ngày 29/4/1975 (Ảnh: Neal Ulevich – AP)

Tất cả chỉ là dựng chuyện. 300 người chết ở Buôn Ma Thuột thật nhưng họ là nạn nhân của một trận ném bom do chính Thiệu ra lệnh sau khi thành phố này được giải phóng.

Càng gần tới ngày giải phóng, Mỹ càng phóng đại nguy cơ thảm sát đối với người dân miền Nam. Ngày 16/4, James Schlesinger, Bộ trưởng Quốc phòng, đã báo cáo Quốc hội Mỹ rằng, ít nhất 200.000 người dân của Việt Nam Cộng hòa có thể sẽ bị giết trong sự kiện Cộng sản chiến thắng. Ngoại trưởng Mỹ Kissinger phát biểu trước Ủy ban Cứu trợ khẩn cấp của Hạ viện rằng: “Chúng tôi cho rằng, Cộng sản đang cố thanh toán tất cả các thành phần có thể. Sẽ có nhiều hơn các án tử hình nữa”. Tờ Stars and Stripes, tờ báo của quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương, đã đưa một dòng tít gây sự chú ý trong một trong những số báo: “Sẽ có ít nhất một triệu người Việt Nam Cộng hòa bị tàn sát”.

Theo cuốn sách “Giải phóng” của nhà báo Ý Tizano Terzani, Mỹ cố tình tạo nỗi kinh hoàng trong lòng dân miền Nam tới mức độ các cô gái thậm chí tin rằng quân giải phóng “sẽ rút móng tay của từng cô gái một chỉ đơn giản bởi vì họ sơn móng tay” hoặc những người phụ nữ có con với người Mỹ tin rằng, Cộng sản sẽ bắt và giết những đứa con của họ.

Ngày 17/4, Khmer Đỏ chiếm Phnom Penh. Chính quyền Sài Gòn tận dụng việc này và cho đăng tải trên trang nhất các tờ báo ở Sài Gòn về những câu chuyện không rõ ràng về các cuộc thảm sát và bạo lực ở Campuchia. Việc này một lần nữa làm người dân căng thẳng, lo sợ điều tương tự sẽ diễn ra ở Việt Nam với quy mô lớn hơn. Nhiều người Sài Gòn thân Mỹ tự tưởng tượng ra rằng, sẽ có các nhóm ám sát đi từ nhà này tới nhà khác với những danh sách sẵn có từ lâu (như họ vẫn nghe thấy) để tìm người để bắn.

Chính nhà báo phương Tây Tizano Terzani đã khẳng định: “Những câu chuyện và những đồn đại về các cuộc tàn sát, “thảm sát đẫm máu” là do cơ quan tuyên truyền của Mỹ và Thiệu nghĩ ra và tuyên truyền để làm mất uy tín của đối phương, để củng cố tinh thần kháng cự trong người dân và trong Quân đội Việt Nam Cộng hòa, cũng là để thuyết phục Quốc hội Mỹ dành thêm hàng tỉ đôla để cứu Việt Nam, hoặc ít nhất là cứu một số lượng lớn những người miền Nam Việt Nam”. Nhưng sự tuyên truyền này lại gây tác dụng ngược, trở thành một trong những yếu tố khiến miền Nam trở lên hỗn độn, bạo lực và dễ dàng sụp đổ hơn.

Mỹ lên kế hoạch tổ chức di tản

Mỹ không chỉ tuyên truyền mà còn trực tiếp lên kế hoạch thực hiện việc di tản. Người Mỹ đã lên các kế hoạch sẽ di tản không chỉ toàn bộ kiều bào Mỹ và người thân của họ, mà còn tất cả những người Việt Nam đã hợp tác với Mỹ.

Bộ phận CIA của Đại sứ quán đã chuẩn bị một danh sách dài những người cần di tản, có phân chia thứ tự ưu tiên di tản khác nhau phụ thuộc vào mức độ bị đe dọa của mỗi người. Đầu tiên là các quan chức cấp cao, các bộ trưởng đương chức hoặc đã nghỉ hưu; các đặc vụ, những cảnh sát mật. Sau đó là di tản các lãnh đạo tỉnh, huyện, các nghị sĩ, các quan chức cao cấp của một số bộ nhất định, các tướng và nhân viên ngoại giao đã nghỉ hưu. Tiếp đến là những người có mối liên hệ với chính sách của Mỹ ở Việt Nam.

Bộ Ngoại giao Mỹ đã tính toán, tối thiểu là khoảng 130.000 người cần được di tản. Danh sách di tản đã sẵn sàng. Một phi đội máy bay đã được Lầu Năm Góc chỉ định cho việc di tản. Các tàu Mỹ cũng sẵn sàng ngoài phao số 0 để vận chuyển người di tản. Việc di tản diễn ra chậm hơn dự kiến chỉ vì Đại sứ Martin ở Sài Gòn và Ngoại trưởng Mỹ Kissinger ở Washington lo sợ di tản quá sớm sẽ đẩy nhanh hơn nữa sự sụp đổ của một chế độ vốn đã lung lay tận gốc.

Ngoại ô Sài Gòn ngày 30/4/1975; Lính Việt Nam Cộng hòa vứt bỏ quân phục để che giấu thân thế của mình. (Ảnh: Dương Thanh Phong)

Khi nhận thấy thế bại chắc chắn, Đại sứ quán Mỹ vẫn chưa tuyên bố di tản chính thức nhưng đã bí mật di tản những gia đình Mỹ đi trước để không gây sự chú ý quá mức. Mãi tới khi Tổng thống Thiệu từ chức, cuộc di tản mới được tuyên bố chính thức với con số mà Mỹ dự định mang đi lên tới 35 ngàn người. Các thẻ lên máy bay bắt đầu được phát để mọi người lên những chiếc “Freedom Birds – Những chú chim tự do”, những chiếc máy bay rời đến Guam hoặc Phillippines, trước khi sang Mỹ tỵ nạn.

Kích động di tản để kiếm tiền

Di tản người Việt Nam biến thành cơ hội để kiếm tiền cho quan chức và binh lính Mỹ. Họ bảo lãnh và hứa cho nhiều người Việt di tản, khiến những người này đã bán tất cả mọi thứ tài sản, đổi những đồng tiền cuối cùng của mình sang đồng đôla với giá chợ đen chỉ để được đi.

Ngày bại trận tới gần, những thẻ lên máy bay được Đại sứ quán Mỹ cấp cho người Việt càng trở nên quý giá. Ở chợ Sài Gòn, những tấm thẻ đó tăng từ 1 nghìn đến 2 nghìn, rồi 3 nghìn đôla một tấm. Nhân viên làm ở Cục thông tin Mỹ thay vì cấp những tấm thẻ đó cho mọi người ở cơ quan, đã bán chúng với giá 1.500 đôla mỗi tấm.

Ở Sài Gòn, người ta đồn đại rằng, mỗi người Mỹ có thể đưa theo sang Mỹ tới 10 người Việt bằng cách như trên và một thị trường mới bắt đầu phát triển trong cơn tuyệt vọng và sợ hãi của nhiều người. Các gia đình giàu có cố gắng mua “những người Mỹ”, những người có thể đưa họ đi với giá từ 5 đến 10 nghìn đôla mỗi suất. Nhiều người đã đưa tiền và sau đó không nhận được bất kỳ sự trợ giúp nào.

Những người Mỹ khởi hành rời Việt Nam, thậm chí còn quên cả những người đồng hương và đồng minh của họ. Mỹ để lại Việt Nam 250 người Phillippines đã từng làm việc cho họ. Họ cũng bỏ rơi 12 nhà ngoại giao Hàn Quốc, một nhóm người Hoa đến từ Đại sứ quán Đài Loan và đã để lại toàn bộ cán bộ, nhân viên Đại sứ quán Campuchia thời Lon Nol. Cuối cùng, chính quân giải phóng là những người đã bí mật đưa nhiều người trong số này lên những chiếc máy bay đầu tiên rời Việt Nam sang Lào để tránh sự lựa chọn khó xử.

Kết luận về cuộc di tản lịch sử

Như vậy, có thể kết luận cuộc di tản khổng lồ diễn ra trước khi Sài Gòn giải phóng là do chính Mỹ và chính quyền Thiệu tạo ra, đánh vào tâm lý sợ hãi của người dân, đẩy họ rời khỏi Việt Nam để gây mất ổn định cho chính quyền mới, khoét sâu hận thù dân tộc, đổ lỗi cho quân giải phóng. Cuộc di tản còn nhằm phá hoại nền kinh tế miền Nam bởi tầng lớp di tản cũng là những người nắm giữ huyết mạch kinh tế, đặc biệt là cộng đồng doanh nhân và cộng đồng người Hoa. Dư âm của cuộc di tản tới giờ vẫn chưa kết thúc, sự thù hận và tố cáo tới giờ vẫn tiếp diễn với luận điệu chủ yếu là lên án bạo lực của chính quyền Cách mạng đã đẩy người dân tới chỗ phải rời bỏ đất nước.

Sự thật sau gần nửa thế kỷ đã được làm rõ trong hầu hết các tài liệu từ phía bên kia. Tất cả đều khẳng định: sau ngày giải phóng và những năm sau đó, ở Sài Gòn không có sự thanh toán, trả thù lẫn nhau, không có việc sát hại những người theo Mỹ. Nhà báo người Ý viết trong cuốn “Giải phóng”: “Ngày 30 tháng 4 và những ngày sau đó, ở Sài Gòn không có chuyện bắn những kẻ cộng tác với địch, những cảnh sát hay những kẻ tra tấn người yêu nước trước đó. Thật kỳ lạ, đối với một thành phố luôn âm ỉ những lời đồn đại, những câu chuyện không có thật và khó tin nhất như Sài Gòn thì lại không có đến một lời đồn đại về một án tử hình ở đâu đó”.

Người dân Sài Gòn tưng bừng chào đón quân Giải phóng, ngày 30/4/1975. Sự giết chóc đã không hề xảy ra như những gì Mỹ-ngụy phao tin để gieo rắc nỗi sợ hãi trong nhân dân. (Ảnh: Đinh Quang Thành)

Thực tế, đã có một số án tử hình trong 3 tháng ở Sài Gòn sau giải phóng nhưng đó hoàn toàn là việc xử lý những kẻ phạm tội giết người, cướp bóc, không có tội phạm chính trị. Thực tế, nhiều tàn binh của Thiệu đã thâm nhập và giả vờ làm bộ đội để khủng bố người dân ở các khu dân cư, vào các biệt thự bỏ hoang để ăn trộm của cải, ô-tô xe máy. Nhiều bộ đội giải phóng đã bị những kẻ tội phạm giết hại trên phố vào ban đêm chỉ để chúng lấy những bộ quân phục của họ để thực hiện những việc phạm tội. Chính nhờ sự cứng rắn của chính quyền Cách mạng mà tội phạm trên đường phố Sài Gòn giảm hẳn so với trước giải phóng. Bộ đội và quân giải phóng không hề “cướp bóc” như những kẻ chống đối dựng chuyện, mà ngược lại đã dẹp yên được nạn hôi của cướp phá trong nội đô Sài Gòn.

Trước và sau giải phóng, chính quyền Cách mạng đều có chủ trương hết sức rõ ràng rằng, phải để Mỹ rút lui trong danh dự để sớm ổn định đất nước. Đã không có cuộc tấn công nào vào lính Mỹ và các nhân viên của chính quyền Hoa Kỳ khi họ di tản. Đối với người Việt đã theo Mỹ, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng xác định họ đã bị lợi dụng chứ không phải là đối tượng cần mạnh tay xử lý. Chính quyền luôn coi trọng việc bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc và giữ gìn sự ổn định của miền Nam. Chính vì thế, đúng như các nhà báo nước ngoài đã tường thuật, các nhà chức trách quân sự thường xuyên phát đi những lời kêu gọi qua radio, hối thúc mọi người bảo vệ cả tài sản cá nhân và “tài sản của nhân dân”, các thông báo được gửi đi đều nhấn mạnh sẽ có “những hình phạt rất nặng” đối với những kẻ trộm, cướp. Tất cả người dân đều được giải thích rõ rằng chính sách của cách mạng là khoan hồng, rằng không ai bị phạt vì phạm tội trong quá khứ, không ai phải sợ sẽ bị trả thù.

Một thực tế khác không thể không nhắc tới là vào ngày giải phóng và sau đó, có hiện tượng như việc gia đình một số người yêu nước đã bắt hai sĩ quan cảnh sát chế độ cũ có tội ác và định hành hình họ. Bộ đội đã can thiệp và hai người này đã được cứu sống. Tài liệu nước ngoài ghi nhận: “Những sự vụ tương tự đã xảy ra ở nhiều nơi khác, đặc biệt là ở các làng, nơi mối quan hệ giữa người dân và những kẻ đàn áp dân mang tính cá nhân hơn và mọi người biết nhau. Bộ đội thường phải nhốt cảnh sát Ngụy trong các nhà tù trước đây của chính họ và canh phòng cẩn mật để bảo vệ họ khỏi các nhóm người dân muốn xét xử họ”.

Thực tế này khiến chính quyền Cách mạng phải tiến hành việc đăng ký nhân thân, khai báo trình diện và cấp giấy cư trú. Tiếp nữa, chính quyền tổ chức các khóa học tập cải tạo tại chỗ hoặc tập trung. Đối với một số người, việc cải tạo có thể kéo dài vài ngày, với một số người khác có thể kéo dài vài tháng hoặc có lẽ vài năm. Chính sách này về sau bị không ít đối tượng ở phía bên kia phê phán là đàn áp nhưng không nhìn nhận thấy một thực tế rằng việc tạm cô lập một số nhóm người đặc biệt là quan quân chế độ cũ để tránh việc họ bị xử trái pháp luật, bị trả thù bởi chính người dân. Nếu không tách những người đã từng gây tội ác và có nợ máu với cộng đồng ra bằng cách tập trung cải tạo, có thể vô số những cuộc trả thù trên diện rộng đã diễn ra.

Sau này, Nhà nước Việt Nam đã chủ động để nhiều người thực sự muốn ra đi được ra đi một cách tự do và trật tự. Chính phủ đã đàm phán với Hoa Kỳ cho phép người dân đi theo diện HO, theo diện đoàn tụ và có quan điểm cởi mở đối với những người muốn tìm cơ hội ở quốc gia khác. Đối với những người trốn đi và bị kẹt ở các trại tỵ nạn không nước nào chấp nhận cho định cư, đời sống vô cùng khó khăn, Nhà nước Việt Nam đã chủ động đàm phán với Cao ủy Liên Hợp Quốc về Người tỵ nạn (UNHCR) và các quốc gia có người tỵ nạn để đưa họ trở lại Việt Nam, bố trí công ăn việc làm và nơi ăn chốn ở. Những người thù địch nhất kể cả những lãnh đạo cao nhất của chính quyền Sài Gòn cũ về sau cũng đều được tự do trở về nước sinh sống và làm việc dài hạn. Chính họ đều đã nhìn thấy và chứng kiến sự thay đổi không thể tưởng tượng được của đất nước cũng như thái độ rộng mở của chính quyền Việt Nam.

Có thể nói, quá trình di tản đã để lại không ít những mất mát cho người Việt, đặc biệt là những mất mát về sinh mạng con người. Nhà nước Việt Nam và mỗi người Việt Nam có lương tri đều thấy đau xót trước những mất mát này. Đó là những hệ quả đáng tiếc và dường như khó tránh khỏi trong bối cảnh chiến tranh và ly loạn.

Cho dù vậy, thời gian đã đi qua đủ dài để giờ đây chúng ta nhận rõ đâu là sự thật và đâu là những lời nói dối. Từ nhận thức này, những người chưa nhận thức đúng cần nhận thức lại. Mỗi người đều có thể mắc sai lầm nhưng nhận thức lại mới giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn. Những ai còn suy nghĩ lệch lạc về cuộc di tản của người Việt trước và sau giải phóng cần xem xét lại, bởi không có cuộc trả thù nào giữa người Việt với nhau mà chỉ có chính sách đại đoàn kết dân tộc, như chính một Chính ủy Trung tâm Biên Hòa đã nói với nhà báo Ý vào những ngày ngay sau giải phóng: “Chúng tôi đã tha thứ cho các phi công Mỹ đã ném bom xuống nhà cửa của chúng tôi, đốt cháy con chúng tôi. Tại sao chúng tôi không thể tha thứ cho những người Việt, những người đã làm theo lệnh của người Mỹ?”. Đó chính là tinh thần hòa giải của người Việt trong ngày vui lịch sử của dân tộc, ngày thống nhất 30 tháng 4 năm 1975./.

Ảnh độc: 48 giờ trước thời khắc giải phóng miền Nam 30.4.1975

Những hình ảnh do phóng viên quốc tế chụp đã ghi lại khoảnh khắc thành phố Sài Gòn 2 ngày cuối cùng trước khi được …

Ký ức ngày Giải phóng Miền Nam của người lính xe tăng anh hùng

Với ông Nguyễn Trần Đoàn, niềm vinh dự nhất được đóng góp một phần công sức bé nhỏ của mình vào chiến thắng của dân …

Xúc động những hình ảnh không thể nào quên về ngày 30.4 thống nhất đất nước

Ngày 30.4.1975 là một mốc son chói lọi của lịch sử dân tộc – tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975, đỉnh cao là …

Bài Giải Phóng Miền Nam Karaoke

Bài Giải Phóng Miền Nam Karaoke, Karaoke Bài Giải Phóng Quân, Bài Giải Phóng Miền Nam, Lời Bài Hát Giải Phóng Miền Nam, Bài Dự Thi 40 Năm Giải Phóng Miền Nam, Kế Hoạch Giải Phóng Miền Nam, Đề Cương 45 Năm Giải Phóng Miền Nam, Đề Cương 40 Năm Giải Phóng Miền Nam, ý Nghĩa Bài Hát Giải Phóng Miền Nam, Đề Cương Tuyên Truyền 39 Năm Giải Phóng Miền Nam, Quy Cách Phòng Karaoke, Quy Định Cách âm Phòng Karaoke, Đơn Xin Miễn Thể Dục Và Quốc Phòng, Đơn Xin Miễn Học Quốc Phòng, Đơn Xin Miễn Học Giáo Dục Quốc Phòng, Đơn Xin Miễn Giáo Dục Quốc Phòng, Thể Lệ Giải Thưởng Xổ Số Miền Nam, Quyết Định Miễn Nhiệm Trưởng Phòng, Luật Phòng Chống Suy Giảm Miễn Dịch, Mẫu Quyết Định Miễn Nhiệm Trưởng Phòng, Phuong Huong Va Giai Phap Co Ban Phong Chong Dien Bien Hoa Binh Va Phong Chong Bao Loan, Luật Phòng Chống Nhiễm Vi Rút Gây Ra Hội Chứng Suy Giảm Miễn Dịch Mắc Phải ở Người (hiv/aids), Mẫu Hóa Đơn Karaoke, Cô Đơn Karaoke, Karaoke, Bài ừ Thì Karaoke, Mục Lục Karaoke, Em Làm Kế Hoạch Nhỏ Karaoke, Nội Quy ăn Nhậu Karaoke, Đơn Khiếu Nại Karaoke, Trích Đoạn Karaoke, Trích Đoạn Karaoke Hàn Mặc Tử, Quyết Định Như Vậy Đi Karaoke, Nghị Định Số 20 Karaoke, Nghị Định Karaoke, Trích Đoạn Hàn Mặc Tử Karaoke, Karaoke Ok Quyết Định Vậy Đi, Quyết Định Về Đi Karaoke, Trích Đoạn Bên Cầu Dệt Lụa Karaoke, Quyết Định Karaoke, Quyết Định Vậy Đi Karaoke, Quyết Định Ly Karaoke, Danh Sách Karaoke, Hóa Đơn Thanh Toán Karaoke, Truyện Cổ Tích Karaoke, Quyết Định Ra Đi Karaoke, Quyết Định Đi Karaoke, Trích Đoạn Tìm Em Nơi Đâu Karaoke, Trích Đoạn Đưa Em Về Quê Mẹ Karaoke, Karaoke Nghị Định Số 20, Download Miễn Phí: Thông Tư 111/2009/tt-bqp Ngày 20/11/2009 Của Bộ Quốc Phòng, Hướng Dẫn Thu âm Karaoke Trên Youtube, Thủ Tục Sang Nhượng Quán Karaoke, Trích Đoạn Vụ án Mã Ngưu Karaoke, Nhạc Chế Nghị Định 100 Karaoke, Mẫu Đơn Xin Cấp Phép Kinh Doanh Karaoke, Trích Đoạn 17 Năm Trường Hận Karaoke, Trích Đoạn Xin Lần Yêu Nhau Karaoke, Karaoke Trích Đoạn âu Thiên Vũ, Trích Đoạn A Khắc Chữ Sa Karaoke, Trích Đoạn Karaoke Vụ án Mã Ngưu, Trích Đoạn Lan Và Điệp Karaoke, Trích Đoạn Xin Một Lần Yêu Nhau Karaoke, Hướng Dẫn Sử Dụng Đầu Karaoke Acnos, Trích Đoạn Nửa Đời Hương Phấn Karaoke, Trích Đoạn 12 Câu Phụng Hoàng Karaoke, Trích Đoạn Karaoke Máu Nhuộm Sân Chùa, Trích Đoạn Karaoke Nguyệt Hổ Vương, Quyết Định Vậy Đi Karaoke Lâm Chấn Khang, Trích Đoạn Cây Uyên ương Karaoke, Trích Đoạn Máu Nhuộm Sân Chùa Karaoke, Trích Đoạn Mùa Thu Trên Bạch Mã Sơn Karaoke, Trích Đoạn Gánh Cỏ Sông Hàn Karaoke, Bài Giải Phóng, Bài Thi 60 Năm Giải Phóng Thủ Đô, Đề án Giải Thể Phòng Y Tế, Bài Dự Thi 60 Năm Giải Phóng Thủ Đô, Trích Đoạn A Khắc Thiên Kiều Karaoke, Trích Đoạn Đêm Lạnh Chùa Hoang Karaoke, Giải Bài Tập Quốc Phòng 10 Bài 5, Giải Bài Tập Quốc Phòng 10 Bài 1, Giải Bài Tập Quốc Phòng 12 Bài 9, Mẫu Hồ Sơ Giải Phóng Mặt Bằng, Giải Pháp Khu Vực Phòng Thủ, Lời Bài Hát Giải Phóng Quân, Bài Giải Phóng Quân, Mẫu Đơn Khiếu Nại Đền Bù Giải Phóng Mặt Bằng, Giải Pháp Xây Dựng Khu Vực Phòng Thủ, Lời Bài Giải Phóng Điện Biên, Bài Giải Phóng Điện Biên, Giải Bài Tập Giáo Dục Quốc Phòng 11, Hướng Dẫn Thủ Tục Giải Phóng Mặt Bằng, Quy Cách Cọc Giải Phóng Mặt Bằng, Giải Phóng Tài Sản Tai Nạn Giao Thông, Cúng Giải Phong Long, Quy Trình Giải Phóng Mặt Bằng, Mẫu Đơn Đề Nghị Đền Bù Giải Phóng Mặt Bằng, Văn Bản Hướng Dẫn Giải Phóng Mặt Bằng, Con Đường Cứu Nước Giải Phóng Dân Tộc, Phương án Giải Phóng Mặt Bằng,

Bài Giải Phóng Miền Nam Karaoke, Karaoke Bài Giải Phóng Quân, Bài Giải Phóng Miền Nam, Lời Bài Hát Giải Phóng Miền Nam, Bài Dự Thi 40 Năm Giải Phóng Miền Nam, Kế Hoạch Giải Phóng Miền Nam, Đề Cương 45 Năm Giải Phóng Miền Nam, Đề Cương 40 Năm Giải Phóng Miền Nam, ý Nghĩa Bài Hát Giải Phóng Miền Nam, Đề Cương Tuyên Truyền 39 Năm Giải Phóng Miền Nam, Quy Cách Phòng Karaoke, Quy Định Cách âm Phòng Karaoke, Đơn Xin Miễn Thể Dục Và Quốc Phòng, Đơn Xin Miễn Học Quốc Phòng, Đơn Xin Miễn Học Giáo Dục Quốc Phòng, Đơn Xin Miễn Giáo Dục Quốc Phòng, Thể Lệ Giải Thưởng Xổ Số Miền Nam, Quyết Định Miễn Nhiệm Trưởng Phòng, Luật Phòng Chống Suy Giảm Miễn Dịch, Mẫu Quyết Định Miễn Nhiệm Trưởng Phòng, Phuong Huong Va Giai Phap Co Ban Phong Chong Dien Bien Hoa Binh Va Phong Chong Bao Loan, Luật Phòng Chống Nhiễm Vi Rút Gây Ra Hội Chứng Suy Giảm Miễn Dịch Mắc Phải ở Người (hiv/aids), Mẫu Hóa Đơn Karaoke, Cô Đơn Karaoke, Karaoke, Bài ừ Thì Karaoke, Mục Lục Karaoke, Em Làm Kế Hoạch Nhỏ Karaoke, Nội Quy ăn Nhậu Karaoke, Đơn Khiếu Nại Karaoke, Trích Đoạn Karaoke, Trích Đoạn Karaoke Hàn Mặc Tử, Quyết Định Như Vậy Đi Karaoke, Nghị Định Số 20 Karaoke, Nghị Định Karaoke, Trích Đoạn Hàn Mặc Tử Karaoke, Karaoke Ok Quyết Định Vậy Đi, Quyết Định Về Đi Karaoke, Trích Đoạn Bên Cầu Dệt Lụa Karaoke, Quyết Định Karaoke, Quyết Định Vậy Đi Karaoke, Quyết Định Ly Karaoke, Danh Sách Karaoke, Hóa Đơn Thanh Toán Karaoke, Truyện Cổ Tích Karaoke, Quyết Định Ra Đi Karaoke, Quyết Định Đi Karaoke, Trích Đoạn Tìm Em Nơi Đâu Karaoke, Trích Đoạn Đưa Em Về Quê Mẹ Karaoke, Karaoke Nghị Định Số 20,