Giúp Học Sinh Lớp 3 Giải Toán Có Lời Văn / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Ictu-hanoi.edu.vn

Skkn Một Số Kinh Nghiệm Giúp Học Sinh Lớp 3 Học Tốt Giải Toán Có Lời Văn

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Trong các môn học ở Tiểu học, cùng với môn Tiếng việt, môn Toán có vai trò rất quan trọng. Ngôn ngữ toán học, các kiến thức toán học là những điều rất cần thiết cho đời sống, sinh hoạt, lao động và học tập cho các môn học khác, đồng thời cũng là cơ sở để học sinh học tiếp lên những lớp trên. Ở bậc Tiểu học, môn Toán là một trong những môn học chiếm vị trí quan trọng. Vì vậy để giúp học sinh nắm được hệ thống kiến thức, kỹ năng cơ bản ban đầu về Toán học không phải là điều dễ dàng, đơn giản. Toán học rất đa dạng và phong phú, có nhiều loại bài toán, ở nhiều dạng khác nhau, trong đó bài toán có lời văn luôn giữ vị trí quan trọng. Bản thân là giáo viên Tiểu học trực tiếp đứng lớp, tôi luôn nhận thấy việc dạy: “Giải các bài toán có lời văn” cho học sinh luôn là vấn đề cần được chú trọng quan tâm. Bởi vì không chỉ đối với học sinh khi tiếp cận với dạng Toán này thường gặp khó khăn, mà đây còn là vấn đề trăn trở của giáo viên trong quá trình giảng dạy, để làm sao cho phù hợp với xu hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, đồng thời mang lại hiệu quả cao nhất trong công tác giảng dạy ở nhà trường. Chính vì vậy tôi chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt giải toán có lời văn” với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng dạy và học toán ở trường Tiểu học Hà Tân. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Đề tài này phần nào giúp các em học sinh học tập môn toán tốt hơn nói chung và giải bài toán có lời văn nói riêng. Bổ sung cho các em một số kiến thức, kỹ năng còn thiếu hụt khi gặp các tình huống khác nhau, giúp các em có kiến thức và dễ nhận dạng toán và giải bài toán có lời văn nhanh hơn. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: Đề tài này áp dụng tốt cho học sinh lớp 3 khi gặp các bài toán giải có lời văn. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: – Tham khảo, thu thập tài liệu. – Phân tích tổng kết kinh nghiệm. – Kiểm tra kết quả chất lượng học sinh. – Phương pháp giảng giải, minh họa PHẦN II: NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. Môn Toán có mục tiêu cũng như các môn học khác là góp phần hình thành và rèn luyện các phẩm chất, các đức tính cần thiết của người lao động trong xã hội hiện đại. Môn Toán ở Tiểu học có nhiệm vụ giúp học sinh hình thành các kiến thức cơ bản, đơn giản, có nhiều ứng dụng vào đời sống về số học, các số thập phân bao gồm: cách đọc, viết so sánh các số tự nhiên, phân số, số thập phận. Từ đó rèn kỹ năng để nắm chắc các kỹ năng thực hành tính nhẩm, tính viết về bốn phép tính các số tự nhiên, các số thập phân, số đo đại lượng; có những hiểu biết ban đầu thiết thực nhất về các đại lượng cơ bản như: độ dài, khối lượng, thời gian, thể tích, diện tích, dung tích, tiền Việt Nam và một số đơn vị đo thông dụng nhất của chúng. Biết sử dụng các dụng cụ để thực hành đo lường, biết ước lượng các số đo đơn giản. Đồng thời biết nhận dạng và phân biệt một số hình thường gặp, biết tính chu vi, diện tích, thể tích của một số hình. Biết cách giải và trình bày bài giải với bài toán có lời văn, nắm chắc thực hiện đúng quy trình bài toán và bước đầu biết giải một bài toán bằng các cách khác nhau. Thông qua các hoạt động học toán để pháp triển đúng mức một số khả năng trí tuệ và thao tác tư duy quan trọng: so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, cụ thể hóa đồng thời rèn tác phong học tập và làm việc suy nghĩ, có kế hoạch kiểm tra, có tinh thần hợp tác, độc lập và sáng tạo, có ý trí vượt khó cẩn thận, kiên trì, tự tin. Như vậy ta có thể khẳng định rằng giải toán có lời văn là một trong những nội dung quan trọng góp phần thực hiện nhiệm vụ và hoàn thành mục tiêu của môn Toán ở Tiểu học. II.THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU: 1. Thực trạng sách giáo khoa và nội dung chương trình: Chương trình môn toán lớp 3 là một bộ phận của chương trình môn toán tiểu học và là sự tiếp tục chương trình này kế thừa và phát triển những thành tựu về dạy học toán ở nước ta thực hiện đổi mới về nội dung cấu trúc để tăng cường thực hành và ứng dụng kiến thức mới, quan tâm đến đổi mới phương pháp dạy học nhằm giúp học sinh hoạt động học tập tích cực, linh hoạt, sáng tạo theo năng lực của từng học sinh. 2. Thực trạng việc dạy giải toán có lời văn của giáo viên ở trưởng Tiểu học Hà Tân: Trong quá trình dạy học, giáo viên đã nhận thức được sự cần thiết để đổi mới phương pháp dạy học. Việc đổi mới phương pháp dạy học đã được bản thân tôi và các giáo viên trường Tiểu học Hà Tân áp dụng phổ biến rộng rãi vào tất cả các môn học, tiết học. Đặc trưng của phương pháp dạy học mới là lấy học sinh làm nhân vật trung tâm của quá trình dạy học, còn người giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn hoạt động học của học sinh, giúp học sinh huy động tối đa sự hiểu biết và vốn kinh nghiệm của mình một cách tích cực, tự giác để chiếm lĩnh tri thức mới vận dụng các kiến thức đó một cách sáng tạo vào luyện tập thực hành để rèn các kỹ năng mới. Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy giáo viên còn gặp nhiều khó khăn và còn một số tồn tại trong việc dạy học toán có lời văn có ảnh hưởng đến chất lượng dạy học đó là: người giáo viên có ít tài liệu tham khảo; do không có nhiều thời gian để nghiên cứu nên chưa hiểu hết dụng ý của SGK (phần bài học được tô màu xanh) bởi thời gian giành nhiều cho việc lên lớp chứ chưa nói đến mở rộng và nâng cao; một số ít giao viên vẫn còn áp dụng cách dạy cũ khả năng ứng dụng và khai thác công nghệ thông tin, giáo án điện tử vào trong giảng dạy còn hạn chế; một số giáo viên chưa nêu yêu cầu học sinh sáng tạo tìm cách giải, nhiều lúc còn làm thay cho học sinh và có việc sử dụng bộ biểu diễn dạy học toán chưa hiệu quả. 3. Thực trạng việc học giải toán có lời văn của học sinh lớp 3 trường Tiểu học Hà Tân: Học sinh đa số chỉ nắm (hiểu) cách thực hiện giải toán có lời văn ngay trong tiết học nhưng sau đó thì quên, việc vận dụng kỹ năng thực hành nhất là phương pháp giải toán có lời văn SGK Toán 3 “quy trình” thực hiện giải đề toán có lời văn một cách sáng tạo, linh hoạt hay vận dụng vào thực tế thì còn hạn chế nhiều, các em học sinh thường gặp khó khăn khi giải các bài toán có lời văn. Khi gặp dạng toán này các em thường hay lúng túng khi đặt lời giải, trình bày các danh số thường thiếu hoặc thừa. Hơn nữa các bài toán có lời văn thường không có hình vẽ cụ thể (trừ bài mẫu, ở một số dạng) nên giáo viên khó hướng dẫn trong bước tìm hiểu đề bài. Các em thường chưa đọc kỹ đề bài nên chưa xác định được đề toán cho biết gì, bài toán hỏi gì? Chưa nắm được cái gì mà đề bài cho biết, cái gì đề bài yêu cầu phải đi tìm? Câu trả lời thường vừa thừa vừa thiếu, chưa chính xác và đáp số thường không đúng so với yêu cầu của đề bài, nhiều em còn lúng túng khi thực hiện giải toán có lời văn. Còn một số em hiểu đề toán chưa đúng theo nội dung đề cho. Các “tình huống” trong bài toán có lời văn khi hiểu sai lệch nội dung, yêu cầu của đề toán chưa sâu, từ các tình huống cụ thể chưa tự phát hiện ra mối quan hệ giữa các đại lượng (mối quan hệ toán học mà nội dung đề bài toán đã nêu), từ đó các em chon phép tính giải, lời giải không thích hợp. 4. Kết quả của thực trạng: Năm học 2016 – 2017, tôi được phân công giảng dạy lớp 3A. Ngay từ đầu năm nhà trường đã có kế hoạch khảo sát chất lượng học tập của học sinh. Tôi cũng lên kế hoạch khảo sát về chất lượng chất lượng giải toán có lời văn cho lớp mình, để từ đó có kế hoạch giảng và biện pháp dạy học cho phù hợp với từng nhóm đối tượng học sinh. Đề bài khảo sát như sau: (Thời gian khảo sát 35 phút) Bài 1 (2 điểm): Mẹ hái được 29 bông hoa, chị hái được nhiều hơn mẹ 9 bông hoa. Hỏi chị hái được bao nhiêu bông hoa? Bài 2 (2 điểm): Năm nay ông 65 tuổi, bố kém ông 29 tuổi. Hỏi năm nay bố bao nhiêu tuổi? Bài 3 (3 điểm): Giải bài toán theo tóm tắt sau: 10 nhãn vở Em: ? nhãn vở Anh: Bài 4 (3 điểm): Mua 3 bút chì hết 7500 đồng. Hỏi nếu mua hết 5 bút chì như thế thì hết bao nhiêu tiền? Kết quả khảo sát cho thấy: Tổng số Giải thành thạo Kỹ năng giải chậm Chưa nắm được cách giải 29 7em = 24,2% 11 em = 37,9 % 11 em = 37,9 % Qua kết quả khảo sát học sinh lớp 3A tại trường Tiểu học Hà Tân, những biểu hiện của một số học sinh về mặt kiến thức và kĩ năng còn hạn chế như: 1. Chưa hiểu đề bài toán dẫn đến thực hiện chưa đúng. 2. Tóm tắt bài toán còn hạn chế (chưa biết tóm tắt bài toán theo nhiều cách). 3. Không biết lựa chọn phép tính để giải. 4. Viết lời giải sai (kết cấu câu lời giải, thường chú ý đến danh số không bám sát vào câu hỏi, lời giải dài dòng thiếu chặt chẽ, không tương ứng với phép tính giải). 5. Viết phép tính giải sai trong phần bài giải. 6. Ghi đáp số sai. III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN: 1. Chú trọng khắc sâu kiến thức về giải toán có lời văn cho học sinh: Để không ngừng nâng cao kiến thức, kỹ năng sư phạm trong dạy học giải toán có lời văn bản thân tôi luôn học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp thông qua dự giờ, kiến tập, trao đổi kinh nghiệm khi dạy các bài khó. 2. Coi trọng kỹ năng nhận diện các dạng toán có lời văn: – Khi hướng dẫn học sinh giải các bài toán có lời văn, bản thân giáo viên phải nghiên cứu kỹ sách giáo khoa, hiểu nội dung sách giáo khoa đưa ra. – Trong khi dạy “Giải toán có lời văn” giáo viên không làm thay hoặc áp đặt cách giải mà để học sinh tự tìm ra cách giải bài toán. Tôi tập trung chủ yếu và các bước tóm tắt (bằng ngôn ngữ hoặc bằng sơ đồ đoạn thẳng), phân tích và nhận diện dạng bài toán. a. Giúp học sinh nhận diện dạng toán “Nhiều hơn” Ví dụ 1: Bài tập 1 trong SGK trang 12. [1] Đội một trồng được 230 cây, đội hai trồng được nhiều hơn đội một 90 cây. Hỏi đội hai trồng được bao nhiêu cây? Khi dạy dạng toán này học sinh còn hay nhầm phần tóm tắt bài toán và câu lời giải. Vì vậy dạng toán này tôi tiến hành như sau: – Yêu cầu học sinh đọc đề bài toán. – Giáo viên ra lệnh: Giơ bút chì( cả lớp cùng giơ bút chì). Gạch dưới câu hỏi của bài toán. Giáo viên theo dõi đôn đốc các em làm và giúp đỡ học sinh yếu. – Giáo viên gọi một học sinh đọc xem mình đã gạch dưới câu nào để cả lớp nhận xét. – Cho học sinh tóm tắt bài toán bằng ngôn ngữ hoặc bằng sơ đồ đoạn thẳng. – Bài toán thuộc dạng toán nào? * Lưu ý: – Từ “nhiều hơn” ở bài toán được hiểu như “nhiều hơn”, ngoài ra trong các bài toán khác thuộc dạng toán về nhiều hơn thường có các cụm từ như: hơn, dài hơn, rộng hơn.cũng được hiểu như là “nhiều hơn”. – Giải bài toán về nhiều hơn ở đây là làm phép tính cộng. b. Giúp học sinh nhận diện dạng toán “ít hơn” Ví dụ 2: Bài tập 2 trong SGK trang 12. [1] Một cửa hàng buổi sáng bán được 635l xăng, buổi chiều bán kém buổi sáng 128l xăng. Hỏi buổi chiều cửa hàng bán được bao nhiêu lít xăng? (Hướng dẫn tương tự bài tập 1 SGK toán trang 12) * Lưu ý: – Từ “kém” ở bài toán được hiểu như “ít hơn”, ngoài ra trong các bài toán khác thuộc dạng toán về ít hơn thường có các cụm từ như: ít hơn,kém, ngắn hơn, thấp hơn.cũng được hiểu như là “ít hơn”. – Sau khi học xong hai dạng toán này học sinh phải so sánh được mối quan hệ giữ hai bài toán về “nhiều hơn” và bài toán về “ít hơn”. c. Giúp học sinh nhận diện dạng toán “Gấp một số lên nhiều lần” Ví dụ 3: Bài tập 2 trong SGK trang 33. [1] Con hái được 7 quả cam, mẹ hái được gấp 5 lần số quả cam con hái. Hoi mẹ hái được bao nhiêu quả cam? (Hướng dẫn tương tự bài tập 1 SGK toán trang 12) * Lưu ý: Gấp lên số lần trong bài toán này ta làm phép tính nhân. d. Giúp học sinh nhận diện dạng toán “Giảm đi một số lần” Ví dụ 4: Bài tập 2 trong SGK trang 38. [1] Một cửa hàng buổi sáng bán được 60l dầu, số lít dầu bán được trong buổi chiểu giảm đi 3 lần so với buổi sáng. Hỏi buổi chiều cửa hàng bán được bao nhiêu lít dầu? (Hướng dẫn tương tự bài tập 1 SGK trang 12) * Lưu ý: – Giảm đi một số lần ta làm phép tính chia. – Các bài toán dạng tìm một trong các phần bằng nhau, so sánh số lớn gấp mấy lần số vé e. Giúp học sinh nhận diện dạng toán “Bài toán rút về đơn vị” Ví dụ 5: Bài tập 1 trong SGK trang 129. [1] Có 4500 đồng mua được 5 quả trứng. Hỏi mua 3 quả trứng hết bao nhiê tiền? (Hướng dẫn tương tự bài tập 1 SGK toán trang 12) * Lưu ý: – Bước tìm giá trị của một phần gọi là bước “rút về đơn vị”, thực hiện bằng phép tính chia, đồng thời học sinh cũng phân biệt sự khác nhau và mối liên hệ giữa bài toán giảm đi một số lần và bài toán gấp lên một số lần. [2] – Tập cho học sinh thói quen suy luận để trả lời các câu hỏi. Bài toán cho biết gì? Bài toán bắt ta tìm gì? Sau đó hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng lời (hoặc bằng sơ đồ nếu có thể). Dựa vào tóm tắt trình bày lại bài toán, để giúp học sinh tìm ra mối quan hệ giữa các dự liệu trong bài toán từ đó nhớ lại dạng bài tương tự đã học nhận ra kiến thức cần sử dụng để giải bài toán như: Đây là bài toán thuộc dạng nào đã biết, đã học? Mối giải được bài toán cần làm các phép tính gì? Sau đó trình bày ra nháp rồi mới ghi vào bài làm. Để rèn luyện kỹ năng giải toán có lời trong quá trình giảng dạy tôi tiến hành như sau: – Lập kế hoạch bài học theo hướng đổi mới phương pháp. Khi lập kế hoạch bài học tôi nghiên cứu kỹ nội dung SGK kết hợp với vở bài tập và luôn bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng các môn học để thiết kế bài học. Mặt khác tôi cũng luôn luôn học hỏi và tìm hiểu xem những bài nếu có thể sử dụng giáo án điện tử phù hợp với mục tiêu của bài dạy tôi liền áp dụng để tiết dạy đạt kết quả tốt. – Tổ chức thực hiện kế hoạch bài học có hiệu quả, phát huy hiệu quả các phương tiện, đồ dùng dạy học sẵn có, các phương tiện hiện đại. 3. Tăng cường việc củng cố kiến thức và kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh: Khi đi vào cụ thể từng bài tôi hướng dẫn cho học sinh: Tìm hiểu kỹ đề bài, hiểu cách diễn đạt bằng lời văn của bài toán. Phân tích đề bài, tìm ra mối liên hệ giữa cái đã cho và cái cần tìm thông qua việc tóm tắt bài toán. Cách đặt lời giải phải dựa vào các câu hỏi của bài toán để đặt chính xác. Cần chú ý đến các danh số trong từng phéo tính giải. – Tổ chức thực hiện kế hoạch bài học có hiệu quả, phát huy hiệu quả của giờ học tôi tiến hành để giúp học sinh nắm được các bước cần thiết của quá trình giải toán có lời văn đó là: + Bước 1: Tìm hiểu kỹ đề bài và tóm tắt, nhận dạng bài toán.[2] + Bước 2: Lập kế hoạch giải.[2] + Bước 3: Thực hiện kế hoạch giải.[2] + Bước 4: Kiểm tra lời giải và cách giải.[2] Khi hướng dẫn học sinh giải các bài toán có lời văn, bản thân giáo viên phải nghiên cứu kỹ nội dung SGK, hiểu nọi dung sách giáo khoa đưa ra. Trong khi dạy “Giải toán có lời văn” học sinh biết cách giải, không làm thay hoặc áp đặt cách giải mà để học sinh tự tìm ra cách giải bài toán. Tôi tập trung chủ yếu vào các bước tóm tắt bài toán (bằng ngôn ngữ hoặc sơ đồ đoạn thẳng), phân tích và nhận diện dạng toán. Để thiết lập được cách giải và thứ tự các bước giải là quá trình phức tạp và khó khăn đòi hỏi các em phải có khái niệm tư duy, khái niệm tổng hợp phân tích. Để thực hiện được điều đó các em phải tiến hành: – Suy nghĩ xem câu hỏi của bài toán cần biết gì? Phải thực hiện phép tính gì? Từ các dữ liệu đã cho và điều kiện của bài toán có thể biết gì? Từ đó tìm ra hướng đi tích cực để giải quyết bài toán. Đối với giáo viên phải hướng dẫn các em phân tích tổng hợp đẻ loại bỏ các yếu tố thừa. Chú ý đến vấn đề kinh nghiệm giải toán cho học sinh.[3] – Trước hết học sinh phải nhận ra bài toán thuộc dạng toán nào hoặc có thể biễn đổi về dạng toán nào? – Tìm ra các mối quan hệ giữa các yếu tố, đại lượng trong bài toán thiết lập mối quan hệ đó. – Bài toán đã cho có tương tự bài toán nào đã biết cách giải toán hay giải rồi hay chưa? – Đưa bài toán về dạng đơn giản hơn. Sau khi học sinh làm bài xong, giáo viên đưa ra một vài tình huống để học sinh kiểm tra lại bài làm của mình. Các tình huống đưa ra là: Bài làm sai, bài làm đúng, bài làm còn thiếu hoặc thừa lời giải hoặc đáp số. Học sinh tự xác định được đâu là bài làm đúng để từ đó rút ra kinh nghiệm giải toán cho bản thân. Khi hướng dẫn học sinh giải các bài toán bằng 2 phép tính với các mối quan hệ trực tiếp và đơn giản. Đây là dạng giải toán có lời văn hay gặp ở lớp 3. Với dạng toán này khi hướng dẫn học sinh giáo viên phải hiểu được ở lớp 2 các em mới giải bài toán có một phép tính. Lên lớp 3 các em mới bắt đầu làm quen với bài toán giải bằng 2 phép tính, dựa trên cơ sở cái học sinh đã học, đã biết đó là bài toán có một phép tính để hướng dẫn học sinh giải. Từ cơ sở phân biệt cái đã cho, cái gì là điều kiện, cái gì cần tìm, để tập trung suy nghĩ vào yếu tố cơ bản. Từ đó giúp học sinh bớt được một số câu, chữ làm cho bài toán gọn lại. Nhờ đó mà quan hệ giữa các số đã cho và số phải tìm hiện ra rõ hơn. Đại đa số các bài toán có lời văn ở lớp 3 đều có thể tóm tắt bằng sơ đồ, hoặc minh họa trên trục số.[3] Có nhiều cách tóm tắt một bài toán. Càng biết nhiều cách càng giải toán giỏi. Ví dụ: Bài 2 trong SGK trang 128. [1] Tóm tắt bài toán bằng lời như sau: Có 7 bao: 28 kg gạo 5 bao như vậy: kg? * Cách tóm tắt bằng sơ đồ: – Bài toán: Lan có 5 cái kẹo, Bình có số kẹo gấp Lan

Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Dạng Bài Giải Toán Có Lời Văn Ở Lớp 3

1. Trao đổi với phụ huynh – Thống nhất biện pháp giáo dục.

Trong một lớp học, lực học của các em không đồng đều, ý thức học của nhiều em chưa cao. Để thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không” của ngành giáo dục và giúp cho phụ huynh có biện pháp phù hợp trong việc giáo dục con cái, tôi đã mạnh dạn trao đổi với phụ huynh học sinh về chỉ tiêu phấn đấu của lớp và những yêu cầu cần thiết giúp các em học tập như: Mua sắm đầy đủ sách vở, đồ dùng – cách hướng dẫn các em tự học ở nhà, đặc biệt nhất là đối với các ông bố vào buổi tối cố gắng bớt đi một chút thời gian chuyện trò với bạn bè, tắt (vặn nhỏ đài, ti vi) dành thời gian nhắc nhở, quan tâm cho các em học tập… Rất mừng là đa số phụ huynh đều nhiệt liệt hoan nghênh biện pháp trên vì lâu nay các phụ huynh còn đang vướng mắc nhiều về cách dạy học cho các em. Riêng trong phần bài tập của sách Toán, tôi hướng dẫn phụ huynh cách dạy các em luyện nêu miệng các đề toán, luyện nói và trả lời nhiều…

Tuy nhiên, cuộc họp phụ huynh lần này vẫn còn một số gia đình vắng mặt do có việc đột xuất, do chưa thấy hết được tầm quan trọng của việc học và do điều kiện gia đình còn nhiều khó khăn nên phó mặc việc học của con cái cho giáo viên, cho nhà trường. Đối với những phụ huynh vắng mặt này, tôi tìm cách gặp gỡ, trao đổi tại nhà. Trong số đó có gia đình trao đổi họ lung túng không biết cách dạy con như thế nào nữa mà chỉ biết nhắc nhở con: “Học bài đi” rồi con học gì, làm gì ở bàn học bố mẹ cũng không hay. Đối với những em này, tôi phải hướng dẫn nhiều hơn ở lớp để về nhà các em tự học.

2. Giúp HS phân biệt rõ các dạng toán và chuẩn bị cho việc giải toán.

Ở lớp 3, cùng với việc học phép nhân, chia, học sinh sẽ giải các bài toán đơn dùng phép nhân hoặc chia. Trong các đầu bài toán bằng lời văn, học sinh thường gặp những từ chìa khoá như: “Gấp lên, giảm đi bao nhiêu lần”, “So sánh hơn, kém bao nhiêu lần”. Các từ này thường được gợi ra phép nhân, chia tương ứng. Giáo viên cần chú ý học sinh tránh lẫn lộn ” Bao nhiêu lần” với ” Bao nhiêu đơn vị” và hiểu đúng khái niệm này. Củng cố thói quen đọc và hiểu đúng đề bài để ngăn ngừa tác dụng “Cảm ứng” của các từ “Chìa khoá”. Giáo viên giúp học sinh nắm vững ý nghĩa của phép nhân và phép chia đồng thời giúp học sinh hiểu đúng các từ quan trọng trong đề toán.

Ở lớp 3, các bài toán đơn “Tìm một trong các phần bằng nhau của một số” gắn với phép chia. Đối với học sinh lớp 3, tư duy còn thiên về cụ thể nên hai loại bài toán “chia thành phần bằng nhau” và “chia theo nhóm” tuy đồng nhất về mặt ý nghĩa toán học và đều giải bằng phép tính chia, nhưng lại là hai bài toán khác nhau về mặt ý nghĩa cụ thể. Tuy nhiên khi giải, giáo viên cần hướng dẫn học sinh vượt qua sự khác biệt về mặt tâm lí để tập trung chú ý vào việc tìm ra và thực hiện đúng phép tính thích hợp, còn việc tìm ra từ thích hợp (phép chia), còn việc tìm ra từ thích hợp để “danh số” hoá số thương thì chủ yếu dựa vào kinh nghiệm sống.

Mặt khác, đối với lớp 3, do tư duy của học sinh đã có những tiến bộ, song vốn ngôn ngữ vẫn còn hạn chế, nên việc nâng cao dần dần các yêu cầu về kiến thức và kĩ năng một cách vừa sức học sinh, các yêu cầu về trừu tượng hoá cần được chú ý, nhất là diễn tả các điều kiện, việc sử dụng sơ đồ đoạn thẳng và tia số, thay dần các hình vẽ tượng trưng, cần được coi như một công cụ phổ biến, tinh lược hoá những từ ngữ của đề toán, giúp các em tiếp cận tốt hơn với nội dung đề bài toán. Từ đó dẫn đến định hướng cách giải toán.

Khi học sinh nắm vững cách giải các bài toán đơn, có thể gợi cho học sinh khá, giỏi dùng chữ thay dữ kiện (ở các bài có cấu trúc giống nhau), diễn đạt các cấu trúc toán học, từ đó củng cố ý thức về việc sử dụng các công cụ, thủ thuật toán học giống nhau khi giải chúng. Việc sắp xếp các bài toán đơn mà khi giải học sinh phải vận dụng các phép tính ngược sẽ giúp các em nâng cao và củng cố nhận thức về mối quan hệ giữa các phép tính ngược.

Việc sử dụng hình vẽ hay sơ đồ để minh hoạ các điều kiện của bài toán là có ích với học sinh lớp 3 nói riêng, với học sinh Tiểu học nói chung. Tuy nhiên cần phải hiểu rõ tác dụng của chúng (là chỗ dựa cho suy luận) trong việc giải toán. Đối với các bài toán dễ hay đã nắm vững cách giải cần chú ý đến phát huy trí tưởng tượng của học sinh, từng bước thay đổi chỗ dựa trực quan bằng hình ảnh trong óc suy luận, vừa giúp học sinh mở rộng vốn hiểu biết vừa thúc đẩy quá trình tư duy của học sinh.

3. Giúp học sinh nắm được quá trình giải toán.

Quá trình này thường được tiến hành theo các bước như sau :

– Tìm hiểu nội dung bài toán.

– Tìm cách giải bài toán.

– Thực hiện cách giải bài toán.

– Kiểm tra, đánh giá kết quả.

Thực tiễn việc học giải toán đã khẳng định, sự đúng đắn của các bước trong việc giải toán nói trên. Để làm cho học sinh có thói quen và kĩ năng áp dụng sơ đồ đó, cần làm cho học sinh từng bước nắm được và thực hiện tốt trong quá trình giải toán.

3.1. Dạy học sinh tìm hiểu nội dung bài toán.

Trước hết muốn tìm hiểu đầu bài, cần hiểu rõ cách diễn đạt bằng lời văn của bài toán, các bài toán dưới dạng một bài văn viết, thường xen trộn 3 thứ ngôn ngữ: Ngôn ngữ tự nhiên, thuật ngữ toán học và ngôn ngữ kí hiệu (chữ số, các dấu phép tính, các dấu quan hệ và dấu ngoặc), nên việc hướng dẫn đọc và hiểu đầu bài toán rất quan trọng, nó giúp các em sử dụng được ngôn ngữ kí hiệu đặc biệt, làm các em hiểu được nghĩa của các thuật ngữ và kí hiệu sử dụng đúng.

Để kiểm tra học sinh đọc và hiểu đầu bài toán, giáo viên nên yêu cầu học sinh nhắc lại nội dung đầu bài, không phải học thuộc lòng mà bằng cách diễn tả bằng ngôn ngữ của mình, tiến tới trước khi tìm cách giải cho học sinh, học sinh đã nhập tâm đầu bài toán để tập trung suy nghĩ về nó.

Mỗi bài toán đều có 3 yếu tố cơ bản: Dữ kiện là những cái đã cho đã biết trong đầu bài, những ẩn số là những cái chưa biết và cần tìm (các ẩn số được diễn đạt dưới dạng câu hỏi của bài toán) và những điều kiện là quan hệ giữa các dữ kiện và ẩn số. Hiểu rõ đầu bài là chỉ ra và phân biệt rành mạch 3 yếu tố đó, từng bước thấy được chức năng của mỗi yếu tố trong việc giải bài toán.

Ví dụ: Bài toán 4 ( SGK Toán 3 – trang 56)

Có ba thùng dầu, mỗi thùng chứa 125 lít, người ta đã lấy ra 185 lít dầu từ các thùng đó. Hỏi còn lại bao nhiêu lít dầu ?

Với bài toán trên học sinh cần xác định được:

Cái đã cho (dữ kiện) là số lít dầu ở mỗi thùng: 125 lít.

Điều kiện: đã lấy ra từ các thùng dầu đó 185 lít dầu.

Cái cần tìm (ẩn số): còn lại bao nhiêu lít dầu?

Trên cơ sở phân biệt rõ cái gì đã cho (dữ kiện), cái gì là điều kiện, cái cần tìm (ẩn số) để tập trung suy nghĩ vào các yếu tố cơ bản này, cần giúp học sinh biết tóm tắt đầu bài bằng cách ghi dữ kiện, điều kiện và câu hỏi của bài toán dưới dạng ngắn gọn cô đọng nhất. Tuyệt đại bộ phận các bài toán ở Tiểu học nói chung, ở lớp 3 nói riêng, đều có những điều kiện để minh hoạ bằng sơ đồ (đoạn thẳng, hình vẽ tượng trưng). Vì vậy học sinh phải từng bước biết minh hoạ phần tóm tắt bằng sơ đồ, nhất là sơ đồ đoạn thẳng hoặc minh hoạ trên trục số.

Ví dụ: Bài toán 3 (SGK toán 3 trang 166 )

Một hình chữ nhật có chiều dài 12 cm, chiều rộng bằng 1/3 chiều dài. Tính diện tích hình đó.

Sau khi đọc kĩ đề bài, xác định được dữ kiện, điều kiện và ẩn số của bài toán, học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng như sau:

Quá trình tìm hiểu đầu bài và tìm tòi lời giải kết hợp với nhau một cách chặt chẽ. Nhiều trường hợp, khi tìm cách giải, học sinh gặp khó khăn phải trở lại tìm hiểu đầu bài, tìm hiểu dữ kiện và điều kiện.

3.2. Hướng dẫn học sinh tìm cách giải bài toán.

Từ việc giải một bài toán đơn sang bài toán hợp, học sinh phải giải quyết một nhiệm vụ khó khăn là phân tích bài toán hợp thành các bài toán đơn. Trên tinh thần dạy học phát triển, việc làm cho các em nắm được các phương pháp chung và các thủ thuật cơ bản thường dùng để giải các bài toán đa dạng nhưng thường gặp và có những mức độ phức tạp khác nhau là rất cần thiết. Để giải quyết được vấn đề này, giáo viên cần giúp học sinh biết dẫn về một bài toán đã biết cách giải. Khi giải một bài toán mới, học sinh biết dẫn nó về một bài toán mà các em đã biết cách giải, hoặc có thể liên tưởng tới những hành động thực tiễn nào đó mà các em đã thực hiện, để giải quyết một nhiệm vụ nào đó thì các em có thể có một gợi ý về cách giải.

Ví dụ 1: Bài toán 2 phần a ( SGK toán 3 trang 38 )

Một cửa hàng buổi sáng bán được 60 lít dầu, số lít dầu bán được trong buổi chiều giảm đi 3 lần so với buổi sáng. Hỏi buổi chiều cửa hàng đó bán được bao nhiêu lít dầu ?

Khi giải bài toán này qua phân tích hai điều kiện của bài toán và tập trung chú ý vào hai điều kiện, các em dẫn tới những bài toán đã học về: “Tìm một phần mấy của một số” để tìm số lít dầu bán được vào buổi chiều (60 : 3 = 20 l.)

Ví dụ 2: Bài toán 2 (SGK toán 3 trang 88)

Người ta uốn một đoạn dây thép vừa đủ thành một hình vuông cạnh 10cm. Tính độ dài đoạn dây được.

Đối với bài toán trên, các em cần phân tích các dữ kiện đã biết, kết hợp quan sát giáo viên thao tác trực quan trên mô hình để nhận thấy độ dài đoạn dây chính là chu vi hình vuông được tạo thành. Từ đó các em biết dẫn về bài toán đã biết “Chu vi hình vuông” để tìm được độ dài đoạn dây thép (10 x 4 = 40 cm)

Bên cạnh đó việc quan sát và dự đoán trong quá trình tìm ra lời giải cũng rất quan trọng. Quan sát các dữ kiện có vai trò quyết định trong việc tìm ra lời giải của bài toán.

Ngoài ra, trong sách giáo khoa toán 3, bên cạnh phần lớn các bài toán dành cho học sinh trung bình, còn một số bài toán mà các dữ kiện thường nhiều hơn, phức tạp hơn, nhiều khi không được đưa ra trực tiếp hoặc tường minh. Việc tìm phương pháp giải nhiều khi phụ thuộc vào việc tìm ra “điểm nút” để tập trung tháo gỡ ra, việc lựa chọn con đường đúng đắn để tiếp cận nó. Muốn vậy phải biến đổi bài toán, với một số biến đổi thường được dùng ở Tiểu học.

Ví dụ : Bài toán 3 (SGK toán 3 trang 88)

Mỗi viên gạch hình vuông có cạnh 20cm. Tính chu vi hình chữ nhật ghép bời 3 viên gạch như thế.

Đây là bài tập vận dụng của bài “Chu vi hình vuông” nên không ít học sinh máy móc đã vận dụng quy tắc tính chu vi hình vuông vừa học để tìm chu vi một viên gạch, sau đó lấy chu vi một viên gạch gấp lên 3 lần để ra chu vi hình chữ nhật. Và các em không hề nhận ra phương pháp giải của mình là sai lầm.

Để giải quyết vấn đề này, theo tôi “nút thắt” cần tháo gỡ chính là giúp học sinh so sánh tìm ra điểm khác nhau giữa chu vi hình chữ nhật được ghép từ 3 viên gạch hình vuông và tổng chu vi của 3 viên gạch hình vuông. Giáo viên cho học sinh chỉ trên hình vẽ, và đồ lại bằng phấn màu để các em quan sát, so sánh để nhận thấy tổng chu vi 3 viên gạch hơn chu vi hình chữ nhật cần tìm là 4 lần cạnh viên gạch hình vuông. Từ đó các em phát hiện ra điểm sai lầm trong cách giải nêu trên và tìm ra con đường đúng để tìm tòi lời giải cho bài toán : Trước tiên cần xác định chiều rộng (cạnh viên gạch hình vuông : 10cm) và tìm chiều dài ( 10 x 3 = 30 cm) của hình chữ nhật, sau đó đưa về bài toán tìm chu vi hình chữ nhật để tìm ra đáp số.

3.3. Hướng dẫn học sinh thực hiện giải bài toán.

Khi thực hiện kế hoạch giải bài toán, học sinh còn dựa vào các thủ thuật (hay phép) giải thích đối với từng khâu trong kế hoạch để đi đến kết quả mong muốn. Đối với một số bài toán có cấu trúc riêng, thường sử dụng các thủ thuật (phép) giải riêng. Với đặc điểm trình độ tư duy của học sinh lớp 3, việc sử dụng phương pháp chung dưới hình thức các phép thích hợp với lứa tuổi sẽ mang lại kết quả mong muốn. Một số phương pháp phù hợp hay được sử dụng là:

+ Tìm lời giải bằng sơ đồ:

Ở lớp 3, các bài toán đều mang tính chất đơn giản nên các dữ kiện và điều kiện của nhiều bài toán có thể diễn đạt trực quan bằng sơ đồ đoạn thẳng, loại sơ đồ này được dùng phổ biến làm chỗ dựa cho việc tìm kế hoạch giải bài toán hoặc một phần bài toán.

Ví dụ: Bài 3 (SGK toán 3 trang 58)

Thửa ruộng thứ nhất thu hoạch được 127 kg cà chua, thửa ruộng thứ hai thu hoạch được nhiều gấp 3 lần số cà chua ở thửa ruộng thứ nhất. Hỏi thu hoạch ở cả hai thửa ruộng được bao nhiêu ki-lô-gam cà chua ?

Để giải bài toán này giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ đồ.

Sau khi đọc kĩ đề bài ta thấy: Nếu coi số cà chua thu hoạch ở thửa ruộng thứ nhất là 1 phần thì số cà chua thu hoạch ở thửa ruộng thứ hai sẽ là 3 phần bằng nhau. Ta có sơ đồ:

Từ sơ đồ trên ta dễ nhận thấy mối quan hệ giữa số ki-lô-gam cà chua của hai thửa ruộng, từ đó có thể nêu ra cách giải toán:

Bài giải:

Thửa ruộng thứ hai thu hoạch được số ki-lô-gam cà chua là:

127 x 3 = 381 (kg).

Cả hai thửa ruộng thu hoạch được số ki-lô-gam cà chua là:

127 + 381 = 508 (kg).

Đáp số: 508 kg cà chua.

+ Lựa chọn và kết hợp các phép giải:

Khi điều khiển quá trình dạy học sinh giải toán, giáo viên cần phải động viên học sinh cố gắng, tự tin tìm ra cách giải toán, tự tìm ra các thủ thuật thích hợp, biết mò mẫm, quan sát, phỏng đoán, huy động các kinh nghiệm đã có để tìm ra lời giải. Việc hướng dẫn các em giải toán, trước hết là học sinh khá giỏi, biết từng bước dùng chữ thay số cần tìm, diễn đạt quan hệ bài toán bằng phương trình và giải nó bằng thủ thuật thích hợp, vừa sức các em là điều cần chú ý.

Thực hiện giải bài toán bao gồm việc thực hiện các phép tính trong kế hoạch giải bài toán và trình bày bài giải. Theo chương trình toán hiện hành, thì mô hình trình bày bài giải bài toán có lời văn ở lớp 3, mỗi phép tính, mỗi biểu thức đều phải kèm theo câu lời giải, cuối bài có ghi đáp số.

Ví dụ 1: Bài 3 (SGK Toán 3 trang 32)

Mỗi lọ hoa có 7 bông hoa. Hỏi 5 lọ hoa như thế có bao nhiêu bông hoa ?

Bài giải

Năm lọ hoa như thế có số bông hoa là:

7 x 5 = 35 (bông hoa)

Đáp số: 35 bông hoa.

Một đội trồng cây đã trồng được 948 cây, sau đó trồng thêm được bằng 1/3 số cây đã trồng. Hỏi đội đó đã trồng được tất cả bao nhiêu cây ?

Bài giải

Số cây đội đó trồng thêm là:

948 : 3 = 316 (cây)

Đội đó trồng được tất cả số cây là:

948 + 316 = 1 264 (cây)

Đáp số: 1 264 cây

3.4. Hướng dẫn học sinh kiểm tra, đánh giá kết quả.

Học sinh thường coi rằng bài toán đã giải xong, khi tính đáp số hoặc tìm được câu trả lời cho câu hỏi. Thế nhưng không phải học sinh nào cũng có niềm tin chắc chắn vào kết quả mình tìm được, chỉ cần giáo viên hỏi vặn lại một và câu là các em lại lúng túng, nghi ngờ cách giải của mình. Do đó kiểm tra cách giải và kết quả bài toán là yêu cầu không thể thiếu khi giải toán. Việc làm đó giúp các em biết được kết quả bài làm cũng như cách giải bài toán của mình đã đúng chưa, có phù hợp không. Việc kiểm tra, đánh giá cách giải bài toán phải trở thành thói quen đối với học sinh ngay từ Tiểu học.

Ở lớp 3, cần tập cho học sinh biết nhìn lại toàn bộ bài giải, nhìn lại phương pháp và các thủ thuật đã sử dụng (yêu cầu cao hơn ở lớp 1,2) để vừa kiểm tra bài giải vừa nắm vững thêm cách giải.

Chú ý từng bước cho học sinh thói quen soát lại và suy nghĩ về tính hợp lí của cách giải đã chọn, tìm ra những chỗ dài dòng, chưa hợp lí để tìm cách cải tiến, đặc biệt gây cho học sinh có thói quen tự hỏi: “Có thể giải bằng cách khác không ?” Tìm được cách giải khác một mặt tạo điều kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh.

* Các hình thức thực hiện kiểm tra cách giải bài toán:

– Thiết lập tương ứng các phép tính giữa các số tìm được trong quá trình giải với các số đã cho.

– Tạo ra bài toán ngược với bài toán đã cho rồi giải bài toán đó.

– Giải bài toán bằng cách khác.

– Xét tính hợp lí của đáp số.

Ví dụ: Bài 1 (SGK toán 3 trang 176).

Một sợi dây dài 9 135 cm được cắt thành hai đoạn. Đoạn thứ nhất dài bằng 1/7 chiều dài sợi dây. Tính chiều dài mỗi đoạn dây ?

Bài giải

Chiều dài của đoạn dây thứ nhất là:

9 135 : 7 = 1 305 (cm).

Chiều dài của đoạn dây thứ hai là:

9 135 – 1 305 = 7 830 (cm).

Đáp số: Đoạn thứ nhất: 1 305 cm.

Đoạn thứ hai: 7 830 cm.

– Để kiểm tra cách giải bài toán trên, giáo viên hướng dẫn học sinh thiết lập tương ứng giữa độ dài đoạn dây thứ nhất, độ dài đoạn dây thứ hai với chiều dài của cả sợi dây.

Ta thấy: 1 305 + 7 830 = 9 135 (cm).

Dựa vào phép tính tương ứng trên, ta khẳng định bài toán có cách giải và kết quả đúng.

– Để kiểm tra cách giải bài toán trên, học sinh cũng có thể giải bài toán bằng cách khác. Chẳng hạn như :

Theo đầu bài ra ta có sơ đồ sau:

Ta thấy đoạn thứ nhất dài bằng 1/7 sợi dây tức là cả sợi dây chia ra thành 7 phần bằng nhau thì đoạn1 là một phần, suy ra đoạn 2 là sáu phần bằng nhau vậy có thể tìm độ dài hai đoạn dây theo cách:

Bài giải

Độ dài đoạn dây 1 là:

9 135 : 7 = 1305 (cm)

Độ dài đoạn 2 là:

1 305 x 6 = 7 830 (cm)

Đáp số: Đoạn 1: 1 305 cm,

Đoạn 2: 7 830 cm.

Xét tính hợp lý của đáp số, ta thấy chiều dài của cả sợi dây, trừ đi độ dài của đoạn 2, thì còn lại chiều dài của đoạn 1:

9 135 – 7 830 = 1 305 (cm).

Từ đó ta khẳng định đáp số trên là kết quả đúng.

* Hình thức kiểm tra, đánh giá.

Như trên đã phân tích, ta thấy việc kiểm tra đánh giá lại bài làm là vô cùng cần thiết. Cho nên hình thức tự kiểm tra được sử dụng thường xuyên, và cần hình thành cho mỗi học sinh thói quen tự kiểm tra, đánh giá bài làm của mình. Bên cạnh đó để việc kiểm tra, đánh giá đạt hiệu quả cao, không nhàm chán, các học sinh có cơ hội giao lưu, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ thì giáo viên cũng có thể cho học sinh kiểm tra, đánh giá lẫn nhau. Sau khi kiểm tra, các học sinh có thể đưa ra lời nhận xét, góp ý phù hợp giúp bạn mình tiến bộ hoặc thông qua đó có thể được nghe ý kiến hay của bạn để mình học tập.

4. Rèn kĩ năng giải toán cho học sinh:

Có thể tiến hành rèn kĩ năng giải toán cho học sinh bằng các cách sau :

a. Giải các bài toán nâng dần mức độ phức tạp trong mối quan hệ giữa các số đã cho và số phải tìm, hoặc điều kiện của bài toán

b. Giải bài toán có nhiều cách giải khác nhau.

c. Tiếp xúc với các bài toán thiếu và thừa dữ kiện hoặc điều kiện của bài toán

d. Lập và biến đổi bài toán, hoạt động này có thể tiến hành dưới những hình thức sau:

– Đặt câu hỏi cho bài toán mới chỉ biết dữ kiện hoặc điều kiện.

– Đặt điều kiện cho bài toán.

– Chọn số hoặc số đo đại lượng cho bài toán còn thiếu số liệu.

– Lập bài toán tương tự với bài toán đã giải.

– Lập bài toán ngược với bài toán đã giải.

– Lập bài toán theo bảng tóm tắt hoặc sơ đồ minh hoạ.

– Lập bài toán theo cách giải cho sẵn.

Ví dụ giáo viên đưa bài toán thiếu dữ kiện : Túi gạo thứ nhất bằng 1/3 túi gạo thứ hai. Hỏi túi gạo thứ hai đựng nhiều hơn túi gạo thứ nhất bao nhiêu ki-lô-gam gạo ?

Ở bài toán này học sinh cần tìm hiểu đề bài, phân tích để thấy được bài toán này thiếu dữ kiện. Túi gạo thứ nhất, túi gạo thứ hai đựng bao nhiêu ki-lô-gam gạo chưa cụ thể, mới chỉ có mối quan hệ giữa số gạo của hai túi, do đó cần thêm dữ kiện vào và giải bài toán. Chẳng hạn, ta có thể thêm dữ kiện để được bài toán như sau :

Bài toán: Túi gạo thứ nhất đựng 8 kg gạo và bằng 1/3 số gạo của túi thứ hai. Hỏi túi thứ hai đựng nhiều hơn túi thứ nhất bao nhiêu kilôgam gạo ?

Bài giải

Túi gạo thứ hai đựng số gạo là:

8 x 3 = 24 (kg)

Túi gạo thứ hai đựng nhiều hơn túi gạo thứ nhất số ki-lô-gam gạo là:

24 – 8 = 16 (kg)

Đáp số: 16 kg gạo

Ví dụ: Bài 3(SGK toán 3 trang 129)

Lập bài toán theo tóm tắt sau rồi giải bài toán đó:

Tóm tắt : 4 xe : 8 520 viên gạch.

3 xe : ……… viên gạch?

Bài toán : Bốn xe ô tô chở được 8 520 viên gạch. Hỏi 3 xe ô tô như thế chở được bao nhiêu viên gạch?

Bài giải

Mỗi xe ô tô chở được số viên gạch là:

8 520 : 4 = 2 130 (viên gạch)

Ba xe ô tô chở được số viên gạch là:

2 130 x 3 = 6 390 (viên gạch)

Đáp số: 6 390 viên gạch

5. Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập

Đối với những em chậm tiến bộ, thường rụt rè, tự ti, vì vậy tôi luôn luôn chú ý nhắc nhở, gọi các em trả lời hoặc lên bảng làm bài. Chỉ cần các em có một “tiến bộ nhỏ” là tôi tuyên dương ngay, để từ đó các em sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh dạn, tự tin hơn. Đối với những em học khá, giỏi phải có những biểu hiện vượt bậc, có tiến bộ rõ rệt tôi mới khen. Rõ ràng việc khen học sinh là cần thiết tuy nhiên, nếu ta không biết kết hợp tâm lý từng học sinh mà cứ quá khen sẽ không có tác dụng kích thích. Chính sự khen, chê đúng lúc, kịp thời và đúng đối tượng học sinh trong lớp đã có tác dụng khích lệ học sinh trong học tâp.

Ngoài ra, việc áp dụng các trò chơi học tập giữa các tiết học cũng là một yếu tố không kém phần quan trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học tập, mong muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn. Vì chúng ta đều biết học sinh Tiểu học nói chung, học sinh lớp ba nói riêng có trí thông minh khá nhạy bén, sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú. Đó là tiền đề tốt cho việc phát triển tư duy toán học tuy nhiên các em cũng rất dễ bị phân tán, rối trí nếu bị áp đặt, căng thẳng hay quá tải. Hơn nữa, cơ thể của các em còn đang trong thời kì phát triển hay nói cụ thể hơn là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện vì thế sức dẻo dai của cơ thể còn thấp nên trẻ không thể ngồi lâu trong giờ học cũng như làm một việc gì đó trong một thời gian dài. Vì vậy, muốn giờ học có hiệu quả thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học tức là kiểu dạy học: “Lấy học sinh làm trung tâm.” hướng tập trung vào học sinh, trên cơ sở hoạt động của các em. Trong mỗi tiết học, tôi thường dành khoảng 2 – 3 phút để cho các em nghỉ giải lao tại chỗ bằng cách chơi các trò chơi học tập vừa giúp các em thoải mái sau giờ học căng thẳng, vừa giúp các em có phản ứng nhanh nhẹn, ghi nhớ một số nội dung bài đã học… Một số trò chơi có thể sử dụng củng cố cuối tiết học là Ong đi tìm nhụy ; A-la-đanh và cây đèn thần ; Ai nhanh, ai đúng ? ; Sai ở đâu, sửa ở đó …

Tóm lại: Trong quá trình dạy học, người giáo viên không chỉ chú ý đến rèn luyện kĩ năng, truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải quan tâm chú ý đến việc khuyến khích học sinh tạo hứng thú trong học tập.

Trần Thị Diệp @ 17:55 20/05/2020 Số lượt xem: 193

Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 2 Giải Toán Có Lời Văn

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Cùng với các môn học khác ở bậc Tiểu học, môn Toán có vai trò vô cùng quan trọng, nó giúp học sinh nhận biết được số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực, nhờ đó mà học sinh có những phương pháp, kĩ năng nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh. Nó góp phần rèn luyện phương pháp suy luận, suy nghĩ đặt vấn đề và giải quyết vấn đề; góp phần phát triển óc thông minh, suy nghĩ độc lập, linh động, sáng tạo cho học sinh. Mặt khác, các kiến thức, kĩ năng môn toán ở Tiểu học còn có nhiều ứng dụng trong đời sống thực tế. Trong nhiều năm giảng dạy tôi nhận thấy việc dạy giải toán có lời văn trong chương trình toán bậc Tiểu học nói chung và ở lớp 2 nói riêng là hết sức cần thiết, ở lứa tuổi học sinh tiểu học, tư duy của các em còn hạn chế về mặt suy luận, phân tích nên việc dạy giải toán có lời văn ở tiểu học sẽ góp phần giúp cho học sinh phát triển được năng lực tư duy, khả năng quan sát, trí tưởng tượng phong phú và hình thành khả năng giải toan có lời văn, đặt nền móng vững chắc cho các em học tốt môn toán sau này ở các cấp học trên. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: – Nghiên cứu sách giáo khoa, chuẩn kiến thức kĩ năng để nắm được chương trình của toán lớp 2. Trên cơ sở lí luận thực tiễn phân tích những ưu điểm, tồn tại để tìm ra những biện pháp, giải pháp hữu ích nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy mạch kiến thức giải toán có lời văn. – Tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân dẫn đến những sai lầm của học sinh khi giải toán có lời văn. – Đề xuất biện pháp khắc phục những sai lầm cho học sinh khi giải toán có lời văn. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: – Phương pháp dạy học mạch kiến thức giải toán có lời văn lớp 2. – Học sinh lớp 2 trường tiểu học Xuân Lập – Thọ Xuân. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: – Phương pháp điều tra: + Thông qua việc dự giờ của giáo viên cùng khối trong đơn vị và dự giờ môn toán của giáo viên các khối khác để học tập, rút king nghiệm cho bản thân. + Căn cứ vào kết quả làm bài của học sinh ở các tiết dạy trên lớp và điểm kiếm tra định kì cuối kì 1, cuối kì 2 giáo viên đánh giá, đối chiếu số liệu học sinh hoàn thành mục tiêu môn học để có biện pháp phù hợp, kịp thời với từng đối tượng học sinh. B. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM I. CƠ SỞ LÍ LUẬN: Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải toán, đáp ứng theo yêu cầu của chương trình, đó là điều cần phải trao đổi nhiều đối với chúng ta – những người trực tiếp giảng dạy cho các em rất nhiều việc: Đặt câu lời giải cho bài toán. Ta thấy rằng, giải toán ở Tiểu học trước hết là giúp các em luyện tập, vận dụng kiến thức, các thao tác thực hành vào thực tiễn. Qua đó, từng bước giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận lôgíc. Thông qua giải toán mà học sinh rèn luyện được phong cách của người lao động mới: Làm việc có ý thức, có kế hoạch, sáng tạo và hăng say, miệt mài trong công việc. Thực tế tôi thấy học sinh khi giải các bài toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác. Các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em làm phép tính chính xác và nhanh chóng nhưng không làm sao tìm được lời giải đúng hoặc đặt lời giải không phù hợp với đề toán đặt ra. Chính vì thế nhiều khi dạy học sinh đặt câu lời giải còn vất vả hơn nhiều so với dạy trẻ thực hiện các phép tính ấy để tìm ra đáp số. Việc đặt lời giải ngay từ lớp 1, 2 sẽ là một khó khăn lớn đối với mỗi giáo viên trực tiếp giảng dạy ở lớp 1, 2 nhất là những tuần đầu dạy toán có lời văn ngay ở việc giúp các em đọc đề, tìm hiểu đề Một số em mới chỉ đọc được đề toán chứ chưa hiểu được đề, chưa trả lời các câu hỏi thầy nêu: Bài toán cho biết gì ?… Đến khi giải toán thì đặt câu lời giải chưa đúng, chưa hay hoặc không có câu lời giải Những nguyên nhân trên không thể đổ lỗi về phía học sinh 100% được mà một phần lớn đó chính là các phương pháp, cách áp dụng, truyền đạt của những người thầy. Đây cũng là lý do mà tôi chọn đề tài này, mong tìm ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 nói riêng và trong môn toán 2 nói chung. Để từ đó, các em có thể thành thạo hơn với những bài toán có lời văn khó và phức tạp ở các lớp trên. II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU: 1. Thực trạng chung: – Đa số các đồng chí giáo viên đã xác định được việc dạy “giải toán có lời văn” trong chương trình môn toán lớp 2 là rất quan trọng nên các đồng chí chuẩn bị bài rất chu đáo trước khi lên lớp, nhiều đồng chí đã chịu khó đầu tư, tìm tòi nghiên cứu để giờ dạy đạt kết quả cao. – Học sinh được trang bị kiến thức ngay từ cuối năm lớp 1 nên cũng có nhiều thuận lợi cho việc giải toán ở lớp 2. – Đa số học sinh có ý thức học tập tốt, có đầy đủ sách giáo khoa, vở bài tập phục vụ cho việc học tập của các em. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số lỗi mà giáo viên và học sinh còn mắc phải như: 2. Thực trạng đối với giáo viên. – Khi dạy giải toán cho học sinh, giáo viên mới chỉ cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản mà sách giáo khoa đã biên soạn, giáo viên chưa chú trọng việc ra bài tập cho học sinh làm thêm, phụ đạo thêm để học sinh được luyện tập nhiều, chưa dành thời gian để giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành. – Giáo viên chưa chú ý đến đặc điểm tâm lí lứa tuổi mà chỉ chú ý đến việc cho học sinh ghi nhớ công thức và giải quyết một cách máy móc nên hiệu quả giảng dạy chưa cao. – Nhiều giáo viên trong giờ dạy chưa chú trọng đến cả ba đối tượng, số học sinh nắm bắt kiến thức không đồng đều, chất lượng đại trà chưa cao, nên chưa phát huy được khả năng phát triển toán học của các em. 3. Thực trạng đối với học sinh. Khi giải toán đơn học sinh còn giải toán một cách thụ động, máy móc theo yêu cầu của giáo viên, học sinh chỉ biết giải những bài toán cụ thể chưa biết linh hoạt so sánh và liên hệ với các bài toán khác. – Khi gặp những bài toán có dữ liệu “không tường minh” học sinh thường hay lúng túng do chưa hiểu rõ đề bài và chưa có kĩ năng phân tích đề toán. – Nhiều học sinh đọc còn chưa thông nên việc đọc kĩ đề toán là một việc khó khăn nên dẫn đến giải bài toán sai. – Nhiều em lựa chọn lời giải chưa hay, chưa phù hợp với nội dung bài toán. – Việc đọc đề, tìm hiểu đề đang còn nhiều khó khăn đối với học sinh lớp 2. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề toán và hiểu đề còn thụ động, chậm chạp 4. Kết quả của thực trạng trên: Qua bài kiểm tra khảo sát đầu năm của 34 em học sinh lớp 2 tôi thu được kết quả như sau: Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm dưới 5 SL TL SL TL SL TL SL TL 4 11,7 8 23,5 10 29,5 12 35,3 Qua kết quả điều tra thực trạng trên tôi nhận thấy đây là kiến thức trọng tâm của chương trình toán 2 mà còn rất nhiều học sinh nắm chưa vững. Đây là vấn đề cần phải khắc phục ngay để giúp các em có đầy đủ kiến thức chuẩn bị cho việc học toán ở các lớp trên và giúp các em vận dụng vào tính toán trong cuộc sống hàng ngày. Vì vậy tôi đã tìm ra cách khắc phục thực tế trên trong việc dạy giải toán cho học sinh lớp 2 như sau: III. CÁC GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN: 1. Giải pháp chung: Giải pháp 1: Nắm vững nội dung chương trình toán 2. Giải pháp 2: Giúp học sinh có kĩ năng giải tốt một số dạng toán có lời văn trong chương trình toán 2. Giải pháp 3: Tăng cường luyện tập các bài toán có lời văn cho học sinh. Giải pháp 4: Dạy học quan tâm đồng đều đến tất cả các đối tượng học sinh. Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ toán. 2. Các biện pháp tổ chức thực hiện: 2.1. Biện pháp 1: Nghiên cứu chương trình toán 2, sau đó phân loại các dạng bài trong phần giải toán có lời văn ở lớp 2. Được phân công dạy lớp 2 nhiều năm tôi đã nghiên cứu và nắm vững nội dung chương trình toán 2. Tôi nhận thấy: Trong phần giải các bài toán có lời văn được lồng ghép, xuyên suốt trong toàn bộ chương trình. Ở tất cả các tiết học hầu như đều có ít nhất một bài toán có lời văn. Qua nghiên cứu, tôi đã lọc ra một số dạng bài toán có lời văn thường gặp ở lớp 2 như sau: Dạng 1: Tìm số bị trừ. Ví dụ: Trên bờ có một số con vịt. Khi 8 con vịt đã xuống ao thì còn lại 7 con vịt. Hỏi trên bờ lúc đầu có bao nhiêu con vịt? Dạng 2: Bớt đi 1 số đơn vị ở mỗi số. Ví dụ: Gà đẻ được 51 quả trứng. Mẹ đã lấy 6 quả để làm món ăn. Hỏi còn bao nhiêu quả trứng? Dạng 3: Tìm số hạng chưa biết. Ví dụ: Cả cam và quýt có 45 quả trong đó có 25 quả cam. Hỏi có bao nhiêu quả quýt? Dạng 4: Tìm số trừ. Ví dụ: Một bến xe có 35 ôtô, sau khi một số ôtô rời bến thì trong bến còn lại 10 ôtô. Hỏi có bao nhiêu ôtô rời bến? Dạng 5: Bài toán về nhiều hơn, ít hơn. (hoặc thêm, bớt) + Lớp 2A có 15 bạn gái, số học sinh trai của lớp ít hơn số học sinh gái 3 bạn. Hỏi lớp 2A có bao nhiêu học sinh trai ? + Tháng trước tổ em có 16 bạn được khen, tháng này tổ em có nhiều hơn tháng trước 5 bạn được khen. Hỏi tháng này tổ em có bao nhiêu bạn được khen? … 2.2. Biện pháp 2: Hình thành kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh qua một số dạng bài : Dạng 1: Tìm số bị trừ. Ví dụ: Trên bờ có một số con vịt. Khi 8 con vịt đã xuống ao thì còn lại 7 con vịt. Hỏi trên bờ lúc đầu có bao nhiêu con vịt? Tôi đã hướng dẫn học sinh giải dạng toán này như sau: Bước 1 : Đọc và phân tích đề bài: Đối với dạng toán này yêu cầu học sinh tìm hiểu kĩ nội dung đề bài để hiểu rõ bài toán cho biết gì? ( Trên bờ có một số con vịt, có 8 con vịt xuống ao, còn lại 7 con vịt) Khi đọc xong bài này học sinh phải hiểu kĩ từ “xuống ao” và thiết lập mối quan hệ giữa các số đã cho để tóm tắt đề toán. Giáo viên cho học sinh tự tìm tòi và tự tóm tắt theo cách hiểu của mình, sau đó giáo viên đưa ra cách tóm tắt phù hợp nhất. Tóm tắt: Trên bờ có: ? con vịt Đã xuống ao: 8 con vịt Còn lại : 7 con vịt Bước 3: Lập kế hoạch giải bài toán. Từ bước 2 tôi đã diễn giải để học sinh tìm cách giải như sau: ? – 8 = 7 Số vịt trên bờ Số vịt xuống ao Số vịt còn lại Giáo viên Học sinh ? Bài toán này yêu cầu ta tìm gì? – Số vịt lúc đầu trên bờ Giáo viên phân tích cho học sinh nhận ra các thành phần trong phép trừ. – Học sinh quan sát ? Hãy nhắc lại cho cô các thành phần trong phép tính trừ? – Số bị trừ – số trừ = hiệu ? Nhìn vào sơ đồ em thấy bài toán yêu cầu tìm gì? – Số bị trừ ? Muốn tìm số bị trừ ta làm như thế nào? – Ta lấy hiệu + số trừ ? Đối với bài toán này ta làm như thế nào? – Lấy số vịt còn lại + số vịt đã xuống ao. Bước 4: Thực hiện tính theo trình tự để viết bài giải. – Học sinh tự tìm ra lời giải của bài toán. Bài giải + Số vịt trên bờ lúc đầu là (câu lời giải được ghi dưới dạng mệnh đề khẳng định) Hoặc: Trên bờ có số vịt là: 7 + 8 = 15 ( con vịt) Đáp số: 15 con vịt Bước 5: Kiểm tra lời giải, phép tính và đáp số. – Học sinh nêu ra lời giải của mình. – Học sinh nhận xét lời giải của bạn. – Giáo viên đưa ra lời giải đúng. – Học sinh tự sửa chữa bài của mình. – Học sinh có thể giải bằng cách khác (nếu có). Dạng 2: Bớt đi 1 số đơn vị ở mỗi số. Ví dụ: Gà đẻ được 51 quả trứng. Mẹ đã lấy 6 quả để làm món ăn. Hỏi còn bao nhiêu quả trứng? Tôi cũng hướng dẫn giải theo các bước sau: Bước 1: Đọc và phân tích đề bài ? Bài toán cho biết gì ? – Gà đẻ được 51 quả trứng, lấy đi 6 quả làm món ăn. ? Bài toán hỏi gì? – Còn lại bao nhiêu quả trứng. Tôi chú ý giải thích cho học sinh hiểu được từ ” lấy đi” có nghĩa là ” bớt đi” Bước 2: Tóm tắt đề bằng ngôn ngữ Gà đẻ: 51 quả trứng. Lấy đi: 6 quả trứng. Còn lại: ? quả trứng. Bước 3: Lập kế hoạch giải bài toán. ? Muốn biết còn lại bao nhiêu quả trứng ta làm như thế nào? ( Lấy số quả trứng có lúc đầu (51 quả) trừ đi Số trứng lấy đi ( 6 quả)). Bước 4: Giải bài toán Học sinh đặt lời giải ứng với yêu cầu của đề bài Bài giải Số quả trứng còn lại là: 51 – 6 = 45 (quả) Đáp số: 45 quả trứng. Bước 5: Kiểm tra bài giải. Học sinh tự đánh giá bài của mình và của bạn bằng cách đổi chéo vở để kiểm tra kết qủa cho nhau (dựa trên kết quả đúng mà giáo viên đã đưa ra nhận xét trên bảng) Dạng 3: Tìm số hạng chưa biết. Ví dụ: Cả cam và quýt có 45 quả trong đó có 25 quả cam. Hỏi có bao nhiêu quả quýt? Bước 1: Đọc và phân tích đề bài. ? Bài toán cho biết gì? (45 quả vừa cam, vừa quýt, có 25 quả cam). ? Bài toán hỏi gì? ( Có bao nhiêu quả quýt) Bước 2: Tóm tắt bài toán. Bài toán này tóm tắt bằng ngôn ngữ ngắn gọn. 45 quả 25 quả cam. ? quả quýt. Bước 3: phân tích bài toán để tìm cách giải. Bài toán có thể biểu diễn như sau: 25 quả cam + ? quả quýt = 45 quả. ? Nêu tên gọi và thành phần của phép tính trên – Số hạng + số hạng = tổng ? Phép tính yêu cầu gì? – Tìm số quả quýt (Chính là số hạng chưa biết ) ? Muốn tìm số hạng chưa biết ta làm như thế nào? – Lấy tổng trừ đi số hạng đã biết. ? Áp dụng bài toán này ta làm như thế nào? – Lấy 45 quả trừ đi 25 quả ta tìm được số quả quýt. Bước 4: Giải bài toán ? Bài tập yêu cầu chúng ta tìm gì? – Tìm số quả quýt ? Lời giải bài toán như thế nào? – Số quả quýt có là : ? Nêu phép tính thích hợp? 45 – 25 = 20 ( quả quýt) Bước 5: Kiểm tra bài giải. Học sinh tự kiểm tra lời giải của mình bằng cách so sánh bài của mình với bài của bạn và bài của cô giáo. Dạng 4: Tìm số trừ. Ví dụ: Một bến xe có 35 ôtô, sau khi 1 số ôtô rời bến thì trong bến còn lại 10 ôtô. Hỏi có bao nhiêu ôtô rời bến? Bước1: Đọc và phân tích đề bài. ? Bài toán cho biết gì? – Bến xe có 35 ôtô. Còn lại 10 xe ô tô. ? Bài toán hỏi gì? – Có bao nhiêu xe đã rời bến. Đối với bài này tôi phân tích cho học sinh hiểu các từ ” có”, ” rời bến” và mối liên hệ giữa các từ này. Bước 2: Tóm tắt đề bài. Tôi hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng ngôn ngữ ngắn gọn như sau: Có : 35 ôtô Rời bến : ? ôtô Còn lại: 10 ôtô Bước 3: Lập kế hoạch giải bài toán Bài toán có thể viết thành: Có – Rời bến = Còn lại 35 ôtô ? ôtô 10 ôtô ? Hãy cho biết tên gọi các thành phần trong phép trừ? – Số bị trừ, số trừ, hiệu ? Muốn tìm số trừ ta làm như thế nào? – Lấy số bị trừ trừ đi hiệu? ? Vậy muốn tìm số ô tô rời bến ta làm như thế nào? – Lấy số ô tô có (35 ô tô) trừ đi số ô tô còn lại ( 10 ô tô) Bước 4 : Giải bài toán ? Bạn nào đặt cho cô lời giải bài toán này? ( số ô tô rời bến là) Học sinh giải bài toán vào vở. Bài giải Số ôtô rời bến là: 35 – 10 = 25 ( ôtô) Đáp số: 25 ôtô Bước 5: Kiểm tra bài giải So sánh bài của mình và bài của bạn hoặc bài giải của giáo viên để có kết quả đúng. Dạng 5: Bài toán về nhiều hơn, ít hơn. Ví dụ: Hoà có 4 bông hoa, bình có nhiều hơn Hoà 2 bông hoa. Hỏi Bình có mấy bông hoa? – Tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài toán: + Bài toán này thuộc dạng toán nào? + Đề bài cho chúng ta biết cái gì? + GV hướng dẫn cho HS tìm hiểu bước 2. – Hướng dẫn học sinh tóm tắt đề toán: 4 bông hoa Biểu thị số bông hoa bằng sơ đồ đoạn thẳng. 2 bông hoa Hoà: Bình: ? bông hoa + Tìm cách giải bài toán: Nhìn vào tóm tắt cho thấy Bình có nhiều hơn Hoà 2 bông hoa. – Muốn tìm số bông hoa của Bình thì ta phải tìm thế nào? * Thực hiện cách giải: Bình có số bông hoa là: 4 + 2 = 6 ( bông ) Đáp số: 6 bông hoa. * Ví dụ: Vườn nhà Mai có 17 cây cam, vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7 cây cam. Hỏi vườn nhà Hoa có mấy cây cam? (Bài tập 1, Tr. 30- SGK Toán 2) 17 cây – Hướng dẫn HS tóm tắt: Vườn nhà Mai: 7 cây Vườn nhà Hoa: ? cây Bài giải: Vườn nhà Hoa có số cây cam là: 17 – 7 = 10 (cây) Đáp số: 10 cây cam. 2.3. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn qua thực hiện qua các bước cụ thể. Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy: Để học sinh lớp 2 thực hiện tốt các bài tập giải toán có lời văn thì giáo viên cần cung cấp hướng dẫn học sinh thực hiện thuần thục các bước giải bài toán. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy trên lớp, tôi luôn chú ý hướng dẫn học sinh nắm được các bước giải của bài toán có lời văn như sau: Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán. Cần cho học sinh đọc kĩ đề toán giúp học sinh hiểu chắc chắn một số từ khoá quan trọng nói lên những tình huống toán học bị che lấp dưới cái vỏ ngôn từ thông thường như: “ ít hơn”, “ nhiều hơn”, “tất cả” Nếu trong bài toán có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ đó ở trong bài toán đang làm, sau đó giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đăt câu hỏi đàm thoại: “ Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì?” và dựa vào tóm tắt để nêu đề toán Bước 2: Tìm cách giải bài toán. a. Chọn phép tính giải thích hợp: Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán để xác định cái đã cho và cái phải tìm cần giúp học sinh lựa chọn phép tính thích hợp: Chọn “ phép tính cộng” nếu bài toán yêu cầu “ nhiều hơn” hoặc “ gộp”, “ tất cả”. Chọn “ phép tính trừ” nếu “bớt” hoặc “ tìm phần còn lại” hay là “ít hơn” Ví dụ: Vườn nhà Mai có 17 cây cam, vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7 cây cam. Hỏi vườn nhà Hoa có mấy cây cam? Để giải được bài toán này, học sinh cần phải tìm được mối liên hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm. Hướng dẫn học sinh suy nghĩ giải toán thông qua các câu hỏi gợi ý như: + Bài toán cho biết gì? ( Vườn nhà Mai có 17 cây cam) + Bài toán còn cho biết gì nữa? (Vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7 cây) + Bài toán hỏi gì? (Vườn nhà Hoa có bao nhiêu cây cam) + Muốn biết vườn nhà Hoa

Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Giải Toán Có Lời Văn Ở Lớp 2 Có Hiệu Quả

MỤC LỤC : A. PHẦN MỞ ĐẦUI. Lý do chon đề tài. 2II. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ……………………………………………….2III. Nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………………………….3IV. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………3V. Nội dung của đề tài………………………………………………………………3 B. NỘI DUNGI. Cơ sở lý luận và thực tiễn………………………………………………………..3Cơ sở lý luận…………………………………………………………………3Cơ sở thực tiễn .4II Thực trạng dạy và học giải toán có lời văn ở lớp 2a1 năm học 2009-2010 và 2010-2011…………………………………………………….5III. Nguyên nhân của thực trạng………………………………………………….6III. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn hiệu quả………..61. Tìm hiểu đề toán……………………………………………………………..62. Hướng dẫn giải bài toán…………………………………………………….73. Trình bày bài giải……………………………………………………………84.Giúp đỡ học sinh rụt rè, thụ động và tự ti………………………………….10IV. Kết quả áp dụng……………………………………………………………12V. Bài học kinh nghiệm………………………………………………………..13C. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ1. Kết luận………………………………………………………………………152. Kiến nghị…………………………………………………………………….15 D. Tài liệu tham khảo.

A. PHẦN MỞ ĐẦUI. Lý do chọn đề tàiCùng với các môn học khác ở bậc tiểu học, môn Toán có vai trò vô cùng quan trọng, nó giúp học sinh nhận biết được số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực, nhờ đó mà học sinh có những phương pháp, kĩ năng nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh. Nó góp phần rèn luyện phương pháp suy luận, suy nghĩ đặt vấn đề và giải quyết vấn đề; góp phần phát triển óc thông minh, suy nghĩ độc lập, linh động, sáng tạo cho học sinh. Mặt khác, các kiến thức, kĩ năng môn toán ở tiểu học còn có nhiều ứng dụng trong đời sống thực tế.Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy nhiều năm lớp ở khối 2, tôi thấy: Toán có lời văn có vị trí rất quan trọng trong chương trình Toán ở trường tiểu học. Các em được làm quen với toán có lời văn ngay từ lớp 1. Đặc biệt ở lớp 2,việc giải toán có lời văn yêu cầu các em phải viết lời giải cho phép tính mà lời giải phải hay và chính xác…Có thể nói, đây quả thực là một khó khăn đối với học sinh lớp 2 khi học giải toán có lời văn.Việc giải toán có lời văn ở lớp 2 rất quan trọng vì nó là bước đệm cho việc giải toán có lời văn ở các lớp sau. Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài: ” Một số giải pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn hiệu quả” để góp phần nâng cao chất lượng môn toán nói riêng và chất lượng dạy và học của nhà trường nói chung.Việc nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường còn phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố như : Cơ sở vật chất của nhà trường, điều kiện hoàn cảnh gia đình của học sinh …Đề tài này không đề cặp đến các vấn đề đó mà chủ yếu đi sâu vào một số giải pháp giúp giáo viên dạy học theo nhóm đối tượng học sinh có hiệu quả mà thôi . II. Đối tương, phạm vi nghiên cứu :Đối tượng: Học sinh lớp 2A1 Trường TH Hoàng Hoa ThámPhạm vi : Nghiên cứu trong 2 năm học :2009-2010 ;2010-2011III. Nhiệm vụ nghiên cứu :– Điều tra chất lượng giải toán có lời văn và thực trạng giải toán có lời văn của học sinh lớp 2 trong Trường Tiểu học Hoàng Hoa Thám.Năm học :2009-2010 ;2010-2011– Đưa ra một số giải pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn hiệu quả .IV. Phương pháp nghiên cứu :– Nghiên cứu tài liệu ,sách giáo khoa ,sách giáo viên ,sách tham khảo.– Thống kê Chất lượng giải toán lớp 2A1 năm học :2009-2010; 2010-2011.– Phương pháp thử nghiệm tại lớp 2A1 năm học 2011-2012.V. Nội dung của đề tài :– Điều tra thu thập số liệu thực trạng của việc giải toán có lời văn của học sinh lớp 2A1từ năm học 2009-2010 đến 2010-2011 của Trường Tiểu học Hoàng Hoa Thám-Phân tích số liệu thu thập từ đó tìm ra nguyên nhân hạn chế của phương pháp cũ.– Đưa ra một số giải pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn hiệu quả .– Kết quả thực hiện của đề tài trong phạm vi lớp 2A1 trong học kì I năm học 2011-2012.B. NỘI DUNG: I. Cơ sở lý luận và thực tiễn.1. Cơ sở lý luận.Giải toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài