Lời Giải Hay Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc / Top 9 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Ictu-hanoi.edu.vn

Hướng Dẫn Soạn Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc Ngắn Gọn

Soạn Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trước ở nhà là một sự chuẩn bị có vai trò rất lớn để các bạn có thể tiếp thu bài tốt bài học trên lớp. Việc soạn bài này cũng không phải là một yêu cầu quá khó khăn khi các bạn đã được định hướng bằng hệ thống câu hỏi trong SGK. Chỉ cần các bạn đọc kĩ văn bản và phần tiểu dẫn, trả lời câu hỏi và lý giải được cách trả lời của mình dựa trên kiến thức nền, các bạn không chỉ có thể trang bị cho mình một bài soạn về tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, bên cạnh đó còn có thể vận dụng một phần nào đó để làm bất kì một dạng đề làm văn nào. Cụ thể hơn, bài viết xin hướng dẫn các bạn học sinh soạn bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc phần 2.

I. Hướng dẫn soạn Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc về tác giả, tác phẩm

  

1. Tác giả

Thao tác đầu tiên khi soạn Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc nói riêng và các văn bản nói chung chính là giới thiệu đôi nét về tác giả. Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) sinh thành tại quê mẹ là làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh). Lên 11 tuổi (năm 1833), ông được cha đưa ra Huế cho ăn học. Khi được tạo điều kiện như thế, Nguyễn Đình Chiểu rất chuyên tâm học hành, tưởng chừng việc ông đỗ tú tài năm 1943 sẽ mở ra con đường khoa cử xán lạn, nhưng khi chuẩn bị thi tiếp thì biến cố đã xảy đến với ông năm 1949 – mẹ mất và ông đã khóc thương mẹ đến mù cả hai mắt. Vượt lên nghịch cảnh, ông học nghề thuốc và trở về quê nhà vừa dạy học vừa chữa bệnh cứu người.

Nguyễn Đình Chiểu đã để lại cho nền văn học nước nhà những tác phẩm giàu giá trị. Văn thơ của ông đề cao đạo lí, tinh thần chiến đấu chính nghĩa. Đồng thời ông cũng tỏ rõ quan niệm về sự đa dạng, không gò bó trong sáng tác.

2. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc lớp 11

Khi soạn bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, ta không chỉ cần giới thiệu đôi điều về tác giả mà một nội dung nữa Kiến Guru xin lưu ý với các bạn, đó là khái quát sơ lược về tác phẩm. 

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu làm để đọc tại buổi truy điệu những anh hùng nghĩa sĩ nông dân đã hi sinh trong trận tập kích đồn giặc ở Cần Giuộc vào năm 1861. Mặc dù diệt trừ được một số quan quân của giặc và bọn quan lại bán nước nhưng khoảng hai mươi nghĩa sĩ đã hi sinh quả cảm, để lại niềm xúc động lớn lao, khôn xiết trong lòng nhân dân. Chính vì lẽ đó, tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu cũng phần nào thể hiện tiếng lòng xót xa của quần chúng nhân dân đối với những người lính áo vải trong trận quyết chiến ở Cần Giuộc.

II. Hướng dẫn soạn Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc qua gợi ý trả lời câu hỏi SGK

Câu 1 

Câu hỏi đầu tiên khi soạn Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là câu hỏi về bố cục văn bản. Bố cục của bài văn tế được chia làm ba phần như sau:

Phần 1 (Lung khởi): Từ “Hỡi ôi…” đến “tiếng vang như mõ”: Đây là phần đã khái quát bối cảnh lịch sử và đề cao ý nghĩa sự hi sinh của những người nghĩa sĩ nông dân.

Phần 2 (Thích thực): Từ phần tiếp theo đến “…tàu đồng súng nổ”: Nội dung của phần này nhằm miêu tả hình ảnh của người nông dân trong đời sống lao động và hành trình trở thành người nghĩa sĩ áo vải dũng cảm, can trường.

Phần 3 (Ai vãn): Từ phần tiếp theo đến “… cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”: Phần này thể hiện niềm đau xót, tiếc thương và sự tự hào của tác giả cũng như quần chúng nhân dân đối với những người lính Cần Giuộc anh hùng.

Phần 4 (Kết): Phần còn lại là những dòng viết ca ngợi sự bất tử của những nghĩa sĩ nông dân.

Câu 2

Hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ đã được miêu tả bằng ngòi bút chân thực. Bằng sự quan sát từ mối quan hệ gần gũi từ thực tế cuộc sống của Nguyễn Đình Chiểu với những người nông dân anh dũng, tác giả đã khắc hoạ thành công bức chân dung của họ dù là trong lao động hay trong chiến đấu.

Trong đời sống lao động thường nhật, họ là những người nông dân nghèo khổ, hiền lành, chăm chỉ, quanh năm “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”.

Thế nhưng, khi bóng giặc xuất hiện trên mảnh đất quê hương thân thương, ở họ đã có sự nhận thức cao độ về trách nhiệm của bản thân. Từ nhận thức, họ bộc lộ lòng yêu nước qua những hành động cụ thể: tự nguyện xung phong vào đội ngũ để chiến đấu giết giặc. Khi ra trận, hình ảnh những người nông ấy sử dụng chính những nông cụ thô sơ mà gần gũi để làm vũ khí chiến đấu là hình ảnh đẹp đẽ sẽ mãi lưu dấu vào lịch sử bằng những dòng viết của Nguyễn Đình Chiểu. 

Dù xuất hiện trên trang thơ Nguyễn Đình Chiểu với vai trò như thế nào, những nghĩa sĩ nông dân cũng có một tinh thần quật cường và sự dũng cảm đáng nể trọng vì đã hi sinh tính mạng bản thân để hiện thực hoá lí tưởng chống giặc ngoại xâm và mang lại cuộc sống bình yên cho quê nhà. Họ xứng đáng là những người anh hùng của thời đại.

Cách miêu tả hình ảnh người lính nông dân của Nguyễn Đình Chiểu cho thấy nhiều giá trị nghệ thuật trong thơ văn của ông. Trong tác phẩm, nhà thơ đã sử dụng những từ ngữ rất đỗi chân thực, mộc mạc nhưng đậm đà màu sắc Nam Bộ. Thêm vào đó là ông có cách so sánh hiệu quả, ấn tượng và đặc biệt là nghệ thuật xây dựng hình ảnh nhân vật chân thực, độc đáo. Tất cả những điều đó đã giúp Nguyễn Đình Chiểu chuyển tải thành công nội dung của tác phẩm đến với người đọc.

Câu 3

Việc soạn bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc lớp 11 cần đặc biệt lưu ý tiếng khóc của nhà thơ – một biểu hiện rõ ràng nhất tình cảm của ông đối với người nông dân nghĩa sĩ. Tiếng khóc của Nguyễn Đình Chiểu mang nhiều ý nghĩa, nhưng dù mang ý nghĩa nào đi chăng nữa thì nó cũng xuất phát từ chính tấm lòng yêu thương, trân trọng của ông đối với người nghĩa sĩ. Cụ thể hơn, đó là tiếng khóc của sự nuối tiếc, day dứt cho những họ khi đã phải ra đi khi ý nguyện thực hiện chưa trọn vẹn, sự nghiệp chưa thành. Không chỉ vậy, đó còn là tiếng khóc đau đớn, chua chát khi nghĩ về gia đình họ, nơi có những người mẹ, người vợ, đứa con đau đáu nỗi đau mất người thân. Từ cảm phục và thương xót, tác giả lại càng cho thấy nỗi căm hờn của mình đối với những kẻ nhẫn tâm, tàn ác mang quân đi xâm lược, gieo rắc bao thương đau. Căm hờn càng sâu thì nỗi niềm uất nghẹn trước tình cảnh đau thương của dân tộc lại tuôn trào thành nước mắt. 

Không chỉ có tiếng khóc đau thương, trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc còn có tiếng khóc tự hào, biểu dương. Ông đã thay nhân dân thể hiện tiếng khóc về sự hi sinh của người lính nói chung, cũng là tiếng khóc hướng về cuộc sống trăm bề đau khổ của dân tộc trước gót giày xâm lăng của thực dân. Một phần nào đó, có nhiều dòng thơ lại là tiếng khóc khích lệ, động viên người người sĩ nông dân để có thêm tinh thần, động lực chiến đấu.

Tóm lại, dù tiếng khóc có nhiều biểu hiện khác nhau nhưng tiếng khóc thể hiện trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu không uỷ mị, quỵ luỵ, không thê lương lê thê bởi trong dù đau khổ, xót xa nhưng vẫn mang âm hưởng tự hào, ngợi ca.

Câu 4

Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có sức biểu cảm và sự lay động mạnh mẽ vì nó được viết bằng những nỗi niềm sâu nặng, tình cảm chân thành mà Nguyễn Đình Chiểu dành cho những người lính áo vải. Có những câu nghe sao nhói đau, chạm tới tận tâm can: 

Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.

Chính những điều ấy đã tạo nên sức gợi cảm sâu sắc đối với độc giả. Không chỉ vậy, giọng điệu trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu lại rất đa dạng, nhất là những câu văn mang sắc thái bi thiết khi thể hiện hình ảnh bi tráng của người nông dân.

Giải Bài Tập Ngữ Văn Lớp 11: Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc

Giải bài tập Ngữ văn lớp 11: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Giải bài tập Ngữ văn lớp 11

Để học tốt Ngữ văn lớp 11, chúng tôi mời các bạn học sinh tham khảo tài liệu: Giải bài tập Ngữ văn lớp 11: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, với nội dung đã được chúng tôi cập nhật một cách chi tiết sẽ giúp các bạn học sinh có kết quả cao hơn trong học tập. Mời thầy cô cùng các bạn học sinh tham khảo.

Lời giải hay bài tập Ngữ văn lớp 11: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

I. PHẦN MỘT: TÁC GIẢ

1. Nêu những nét chính về cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu. Anh (chị) cảm nhận sâu sắc điều gì qua cuộc đời nhà thơ?

Gợi ý trả lời

Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, tục gọi là Đồ Chiểu, sinh tại quê mẹ – làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay là Thành phố Hồ Chí Minh), xuất thân trong gia đình nhà nho, cha là Nguyễn Đình Huy quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông là lá cờ đầu của văn thơ yêu nước chống thực dân Pháp khi chúng mới bắt đầu xâm lược nước ta. Văn thơ ông hừng hực tinh thần yêu nước và khí thế chiến đấu chống Pháp và bè lũ tay sai, có ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân.

Tác phẩm chính: Dương Từ Hà Mậu, Lục Vân Tiên, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Ngư tiều vấn đáp y thuật, … Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu là một trấm gương trong sáng, cao đẹp về nhân cách, nghị lực và ý chí, về lòng yêu nước, thương dân và thái độ kiên trung, bất khuất trước kẻ thù. Thơ văn ông là một bài ca đạo đức, nhân nghĩa, là tiếng nói yêu nước cất lên từ cuộc chiến đấu chống quân xâm lược, là thành tựu nghệ thuật xuất sắc mang đậm sắc thái Nam Bộ.

2. Tìm hiểu giá trị thơ văn Nguyễn Đình Chiểu:

– Dựa vào những đoạn trích đã học về Truyện Lục Vân Tiên (ở lớp 9 và lớp 11), hãy cho biết lí tưởng đạo đức của Nguyễn Đình Chiểu được xây dựng chủ yếu trên cơ sở tình cảm nào.

– Nội dung trữ tình yêu nước trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu? Tác động tích cực của những sáng tác thơ văn ấy đối với cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp đương thời ?

– Theo anh (chị), sắc thái Nam Bộ độc đáo của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu biểu hiện ở những điểm nào? Gợi ý trả lời

– Lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa: Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho, cho nên lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa của ông không thể không mang tinh thần Nho giáo. Nhưng ông cũng là một trí thức nhân dân, suốt đời sống ở nơi thôn xóm, giữa những người “dân ấp, dân lân” tâm hồn thuần hậu, chất phác. Họ cũng có cách hiểu dân dã của mình về nhân nghĩa: nhân là tình thương yêu con người, sẵn sàng cưu mang con người trong cơn hoạn nạn, nghĩa là những quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người trong xã hội, tình cha con, nghĩa vợ chồng, tình bạn bè, tinh thần hiệp nghĩa sẵng sàng cứu khốn phò nguy. Nguyễn Đình Chiểu thấm nhuần sâu sắc điều đó. Những nhân vật lí tưởng trong Truyện Lục Vân Tiên hầu hết là những người sinh trưởng nơi thôn ấp nghèo khó (những chàng nho sinh hàn vi như Vân Tiên, Tử Trực, Hớn Minh, những ông Ngư, ong Tiều, ông Quán, chú Tiểu đồng, lão bà dệt vải.”), tâm hồn ngay thẳng, không màng danh, không tham phú quý, sẵn sàng ra tay cứu giúp người bị nạn.

– Lòng yêu nước thương dân: Nguyễn Đình Chiểu sáng tác thơ văn yêu nước ở thời kì đầu chống thực dân Pháp của nhân dân ta. Đây là thời kì lịch sử mà cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gọi là ” khổ nhục nhưng vĩ đại” của dân tộc ta. Đất nước mất dần vào tay giặc, các phong trào chống Pháp lần lượt thất bại, người yêu nước thế hệ này nối tiếp thế hệ khác đã ngã xuống nơi chiến trường. Nhưng “súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”: thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu làm sáng rõ chân lí đó. Ông khóc than cho Tổ quốc gặp buổi thương đau: “Khóc là khóc nước nhà cơn bấn loạn, hôm mai vắng chúa, thua buồn nhiều nỗi khúc nhôi, than là than bờ cõi lúc qua phân, ngày tháng trông vua, ngơ ngẩn một phường trẻ dại” (Văn tế Trương Định). Ông căm uất chửi thẳng vào mắt kẻ thù: “Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta, bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó” (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc). Ông hết lòng ca ngợi những sĩ phu như Trương Định, Phan Tòng đã một lòng vì nước, vì dân: “Viên đạn nghịch thần treo trước mặt – Lưỡi gươm định khái nắm trong tay” (Thơ điếu Phan Tòng). Ông dựng bức tượng đài bất tử về những người dân ấp dân lân: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh” (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc). Ngay cả lúc bờ cõi đã chia đất khác, Nguyễn Đình Chiểu vẫn nuôi giữ niềm tin vào ngày mai: “Một trận mưa nhuần rửa núi sông” (Xúc cảnh), vẫn kiên trì một thái độ bất khuất trước kẻ thù: “Sự đời thà khuất đôi tròng thị – Lòng đạo xin tròn một tấm gương” (Ngư Tiều y thuật vấn đáp). Với nội dung đó có thể nói thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu đã đáp ứng xuất sắc những yêu cầu của cuộc sống và chiến đấu đương thời, có tác dụng động viên, khích lệ không nhỏ tinh thần và ý chí cứu nước của nhân dân.

– Sắc thái độc đáo của Nam Bộ độc đáo trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Các nhân vật như Vân Tiên, ông Ngư, Hớn Minh… họ đều mộc mạc, chất phác nhưng nặng nghĩa, nặng tình. Họ sống vô tư, phóng khoáng, ít bị ràng buộc bởi những phép tắc, lễ nghi và sẵng sàng xả thân vì nghĩa. Họ nóng nảy, bộc trực nhưng lại rất đằm thắm, ân tình. Đó là những nét riêng trong vẻ đẹp của người Viêt Nam.

3*. Với những kiến thức đã học về Nguyễn Trãi và Nguyễn Đình Chiểu, anh (chị) cảm nhận được điều gì gần gũi về tư tưởng nhân nghĩa giữa hai nhà thơ này ? Hãy trình bày ý kiến của mình.

Gợi ý trả lời

Nguyễn Trãi nhân nghĩa đã hướng tới người dân. Ông kêu gọi người cầm quyền nhân nghĩa với dân, thời chiến thì lấy nhân nghĩa để thắng quân giặc bạo ngược, thời bình thì đưa nhân nghĩa vào chính sự, xây dựng nền chính trị nhân chính, khoan thư sức dân. Đến Nguyễn Đình Chiểu, ông đặc biệt đề cao chữ nghĩa, biểu dương những truyền thống đạo đức tốt đẹp giữa con người với con người, quan tâm sâu sắc đến quyền lợi và nguyện vọng của nhân dân, đặc biệt là cư dân vùng đất mới Nam Kì, vốn rất xem trọng mối liên hệ gắn kết giữa con người với con người trên cơ sở chữ nghĩa truyền thống.

LUYỆN TẬP

Căn cứ vào những kiến thức đã học về Nguyễn Đình Chiểu và các tác phẩm của ông, anh (chị) suy nghĩ như thế nào về nhận định của nhà thơ Xuân Diệu: “Cái ưu ái đối với người lao động, sự kính mến họ là một đặc điểm của tâm hồn Đồ Chiểu”?

Gợi ý trả lời

Có thể giải bài tập theo những gợi ý sau:

a) Giải thích câu nói của nhà thơ Xuân Diệu. (Chú ý làm rõ “cái ưu ái”, “sự kính mến” đối với người lao động).

b) Chứng minh nhận định đó qua cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu và những tác phẩm đã học (Truyện Lục Vân Tiên, Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc):

– Những yếu tố nào trong cuộc đời đã góp phần hình thành nét đẹp tâm hồn đó ở Nguyễn Đình Chiểu?

– Nhân vật người lao động đã chiếm lĩnh tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu như thế nào? (Họ là những ai trong Truyện Lục Vân Tiên và thơ văn yêu nước? Nguyễn Đình Chiểu đã đề cao những phẩm chất nhân cách gì của họ? Họ đã có những đóng góp tích cực cho cuộc đời như thế nào?)

– Lập trường nhân dân, tấm lòng yêu thương, cảm thông, chăm lo đến quyền lợi nhân dân đã chi phối nguồn cảm xúc của Nguyễn Đình Chiểu như thế nào? (Chú ý phân tích Lẽ ghét thương, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc).

– Cái nhìn mới mẻ của Nguyễn Đình Chiểu về người nông dân – nghĩa sĩ biểu hiện qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc?

c) Kết luận: Đánh giá chung về sức sống lâu bền của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu

2. PHẦN HAI: TÁC PHẨM

1. Đọc Tiểu dẫn, nắm những nét cơ bản về thể văn tế. Tìm bố cục của bài văn tế này.

Gợi ý trả lời

Vận dụng những hiểu biết về thể văn tế đã nói ở trên để tìm bố cục của bài này và ý nghĩa từng đoạn.

Đoạn 1 – Lung khởi (câu l, 2): khái quát bối cảnh bão táp của thời đại và khẳng định ý nghĩa cái chết bất tử của người nông dân – nghĩa sĩ.

Đoạn 2 – Thích thực (từ câu 3 đến câu 15): tái hiện chân thực hình ảnh người nông dân – nghĩa sĩ, từ cuộc đời lao động vất vả, tủi cực đến giây phút vươn mình trở thành dũng sĩ, đánh giặc và lập chiến công.

Đoạn 3 – Ai vãn (từ câu 16 đến câu 28): bày tỏ lòng tiếc thương, sự cảm phục của tác giả và của nhân dân đối với người nghĩa sĩ.

Đoạn 4 – Kết (hai câu cuối): ca ngợi linh hồn bất tử của các nghĩa sĩ.

2. Hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ được tái hiện trong bài văn tế như thế nào ? (Chú ý phân tích qua cả quá trình: hình ảnh họ trong cuộc sống bình thường, những biến chuyển khi quân giặc xâm phạm tấc đất ngọn rau, bát cơm manh áo vẻ đẹp hào hùng của đội quân áo vải trong trận nghĩa đánh Tây).

Theo anh (chị), đoạn văn miêu tả này đạt giá trị nghệ thuật cao ở những điểm nào (về nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật ngôn ngữ, bút pháp trữ tình,…)?

Gợi ý trả lời

Đoạn 1

Có hai ý lớn: khung cảnh bão táp của thời đại, phản ánh biến cố chính trị lớn lao chi phối toàn bộ thời cuộc là sự đụng độ giữa thế lực xâm lăng tàn bạo của thực dân Pháp và ý chí kiên cường bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta (chú ý những từ chỉ các yếu tố không gian to lớn như đất, tròn và những động từ gợi sự khuếch tán âm thanh và ánh sáng như rền, tỏ); ý nghĩa bất tử của cái chết vì nghĩa lớn. Tất cả hợp thành một bệ đỡ hoành tráng cho bức tượng đài sẽ được dựng ở đoạn sau thành một chỉnh thể có tầm vóc to lớn, bài văn tế trở nên đậm chất sử thi.

Đoạn 2

+ Tái hiện hình ảnh người nông dân trước “trận nghĩa đánh Tây”. Các em đọc để tìm hiểu và phân tích các chi tiết diễn tả cái nhìn chân thực và chan chứa niềm cảm thông đối với cuộc đời lam lũ, tủi cực của người nông dân (câu 3, chú ý từ ngữ gợi cảm cui cút) và dụng ý nghệ thuật của tác giả khi nhấn mạnh vào đặc điểm họ hoàn toàn xa lạ với công việc binh đao (câu 4, 5), nhằm tạo sự đối lập để tôn cao tầm vóc người anh hùng ở đoạn sau.

+ Bước chuyển biến khi quân giặc xâm phạm đất đai, bờ cõi của cha ông: Các em đọc tiếp từ câu 6 đến câu 9, tìm những chi tiết miêu tả lần lượt những bước chuyển biến về tình cảm – lòng căm thù giặc (câu 6, 7), về nhận thức – ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp cứu nước (câu 8, chú ý giải thích nghĩa câu, cuối cùng là hành động tự nguyện “mến nghĩa làm quân chiêu mộ” và ý chí quyết tâm tiêu diệt giặc của người nông dân – nghĩa sĩ (câu 9, lưu ý những cụm từ có sắc thái biểu cảm mạnh: nào đợi, chẳng thèm, ra sức đoạn kình, ra tay bộ hổ). Những bước chuyển biến được miêu tả chân thực, sinh động, hợp lí, gần gũi với cách suy nghĩ và lời ăn tiếng nói của người nông dân. (Ví dụ: “Trông tin quan như trời hạn trông mưa,… ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”).

+ Vẻ đẹp hào hùng của đội quân áo vải trong “trận nghĩa đánh Tây” (từ câu 10 đến câu 15). Có hai ý các em cần khai thác:

* Hình ảnh của đội quân áo vải được khắc hoạ hoàn toàn bằng bút pháp hiện thực, không theo tính ước lệ của văn thơ trung đại, không bị chi phối bởi kiểu sáng tác lí tưởng hoá (các em dẫn chứng từ các câu 10, 11, 12). Đáng chú ý là những chi tiết chân thực đều được chọn lọc tinh tế, nên đậm đặc chất sống, mang tính khái quát, đặc trưng cao (ví dụ: manh áo vải, ngọn tầm bông, rơm con cúi, lưỡi dao phay gắn bó đến không thể tách rời trong cuộc sống những người nông dân thuở ấy). Do thế, bức tượng đài ánh lên một vẻ đẹp mộc mạc, giản dị mà không kém “chất” anh hùng bởi tấm lòng mến nghĩa, bởi tư thế hiên ngang, coi thường mọi khó khăn, thiếu thốn: nào đợi tập rèn, không chờ bày bố, nào đợi mang…, chi nài sắm… (Có thể so sánh với vẻ phi thường của người anh hùng Từ Hải trong Truyện Kiều: “Râu hùm, hàm én, mày ngài – Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” và hình ảnh rạng ngời oai phong của Lục Vân Tiên khi cầm quân đánh giặc ngoại xâm: “Vân Tiên đầu đội kim khôi – Tay cầm siêu bạc, mình ngồi ngựa ô”).

* Hình tượng những người anh hùng được khắc nổi trên nền một trận công đồn đầy khí thế tiến công. Các em đọc lại những câu 13, 14, 15, tìm những chi tiết miêu tả trận đánh, nhận xét về những biện pháp nghệ thuật: Hệ thống từ ngữ: dùng rất nhiều từ chỉ hành động mạnh (đánh, đốt, chém, đạp, xô, hè, ó,…), dứt khoát (đốt xong, chém đặng, trối kệ), nhiều khẩu ngữ nông thôn và từ ngữ mang tính địa phương Nam Bộ (nhà dạy đạo, như chẳng có, thằng Tây, hè, ó, trối kệ,…). Phép đối: đối từ ngữ (trống kì / trống giục, lướt tới / xông Uào; đạn nhỏ / đạn to; đâm ngang / chém ngược; hè trước / ó sau,…); đối ý (ta: manh áo vải, ngọn tầm Uông/địch: đạn nhỏ, đạn to, tàu sắt, tàu đồng; vũ khí thô sơ; rơm con cúi, lưởi dao phay / chiến thắng lớn: đốt xong nhà dạy đạo, chém rớt đầu quan hai; đối thanh bằng – trắc (kia/ nọ, kì/giục, tới/Uào, nhỏ / to, ngang / ngược, trutóc / sau,…).

Hiệu quả nghệ thuật: tạo nhịp điệu đoạn văn nhanh, mạnh, dứt khoát, sôi nổi góp phần tái hiện một trận công đồn của nghĩa quân Cần Giuộc rất khẩn trương, quyết liệt, sôi động và đầy hào hứng.

Trên cái nền trận đánh đó là hình ảnh những người nông dân nghĩa sĩ coi giặc cũng như không, liều mình như chẳng có, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ, nào sợ… đạn nhỏ đạn to… Khí thế của họ là khí thế đạp lên đầu thù xốc tới, không quản ngại bất kì sự gian khổ, hi sinh nào, rất tự tin và đầy ý chí quyết thắng. Hình ảnh đó oai phong, lẫm liệt như hình tượng các dũng sĩ trong những thiên anh hùng ca thuở xưa, nhưng lại gần gũi, sống động, tưởng như họ vừa “Rũ bùn đứng dậy sáng loà” (Nguyễn Đình Thi).

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc, là bức tượng đài bất tử về những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc đã dũng cảm chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc. Bài văn cũng là một thành tựu xuất sắc về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực; ngôn ngữ bình dị, trong sáng, sinh động.

3. Tiếng khóc bi tráng của tác giả xuất phát từ nhiều nguồn cảm xúc. Theo anh (chị), đó là những cảm xúc gì? Vì sao tiếng khóc đau thương này lại không hề bi luỵ?

Gợi ý trả lời

Đoạn Ai vãn của bài văn tế. Ở đoạn này, các tình cảm đan cài vào nhau, nên chọn phương pháp khai thác theo hình tượng. Đây là đoạn văn bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc của tác giả và của nhân dân đương thời đối với người nghĩa sĩ, cho nên tính trữ tình bao trùm, nhưng xen kẽ vào đó vẫn có những yếu tố hiện thực, có giá trị làm tăng độ sâu nặng của cảm xúc.

Trước hết, các em cần đọc và tìm hiểu những nguồn cảm xúc cộng hưởng trong tiếng khóc thương của tác giả, các em cần tìm và phân tích qua những chi tiết nghệ thuật của đoạn văn:

– Nỗi xót thương đối với người nghĩa sĩ: Ở đây có nỗi tiếc hận của người phải hi sinh khi sự nghiệp còn đang dang dở, chí nguyện chưa thành (câu 16, 24), nỗi xót xa của những gia đình mất người thân, tổn thất không thể bù đắp đối với những người mẹ già, vợ trẻ (câu 25), nỗi căm hờn những kẻ đã gây nên nghịch cảnh éo le (câu 21) hoà chung với tiếng khóc uất ức, nghẹn ngào trước tình cảnh đau thương của đất nước, của dân tộc (câu 27). Nhiều niềm cảm thương cộng lại thành nỗi đau sâu nặng (“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo”), không chỉ ở trong lòng người mà dường như còn bao trùm khắp cỏ cây, sông núi, sông Cần Giuộc, chợ Trường Bình, chùa Tông Thạnh, Bến Nghé, Đồng Nai, tất cả đều nhuốm màu tang tóc, bi thương.

– Niềm cảm phục và tự hào đối với những người dân thường đã dám đứng lên bảo vệ từng “tấc đất ngọn rau”, “bát cơm manh áo” của mình chống lại kẻ thù hung hãn (câu 19, 20), đã lấy cái chết để làm rạng ngời một chân lí cao đẹp của thời đại: thà chết vinh còn hơn sống nhục (câu 22, 23).

– Biểu dương công trạng của người nông dân – nghĩa sĩ, đời đời được nhân dân ngưỡng mộ, Tổ quốc ghi công (câu 26, 28). Sau khi đã phân tích qua cả đoạn văn, các em nên chốt lại:

Tiếng khóc không chỉ thể hiện tình cảm riêng tư mà tác giả đã thay mặt nhân dân cả nước khóc thương và biểu dương công trạng người nghĩa sĩ.

Tiếng khóc không chỉ hướng về cái chết mà còn hướng về cuộc sống đau thương, khổ nhục của cả dân tộc trước làn sóng xâm lăng của thực dân. Nó không chỉ gợi nỗi đau thương mà cao hơn nữa, còn khích lệ lòng căm thù giặc và ý chí tiếp nối sự nghiệp dang dở của những người nghĩa sĩ.

Các em có thể tìm hiểu thêm đoạn Ai vãn trong Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh (của Nguyễn Đình Chiểu, ra đời khi cả Nam Kì đã mất vào tay giặc) để thấy tiếng khóc trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc tuy rất bi thiết, nhưng không đượm màu tang tóc, thê lương kéo dài như bài kia chính là nhờ nó còn bao hàm nhiều nguồn cảm xúc khác (đặc biệt là niềm cảm phục tự hào) và sự khẳng định của tác giả về ý nghĩa bất tử của cái chết vì nước, vì dân mà muôn đời con cháu tôn thờ (câu 26, 28,30).

Chi tiết không thể bỏ sót là khi viết Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, ngòi bút Nguyễn Đình Chiểu còn đang được tiếp sức bởi khí thế ngút trời của phong trào chống xâm lược những ngày đầu, khi nhân dân đang nhất tề nổi dậy khắp nơi.

4. Sức gợi cảm mạnh mẽ của bài văn tế chủ yếu là do những yếu tố nào ? Hãy phân tích một số câu tiêu biểu.

Gợi ý trả lời

Câu hỏi có tính chất tổng kết về mặt nghệ thuật:

– Những yếu tố làm nên sức gợi cảm mạnh mẽ của bài văn tế: cảm xúc chân thành, sâu nặng, mãnh liệt (câu 3, 25), giọng văn bi tráng, thống thiết (câu 22, 23, 24), hình ảnh sống động (câu 13, 14, 15).

– Nghệ thuật ngôn ngữ: giản dị, dân dã nhưng được chọn lọc tinh tế, có sức biểu cảm lớn và giá trị thẩm mĩ cao (cui cút; tấc đất ngọn rau, bát cơm manh áo; chia rượu lạt, gặm bánh mì, mẹ già ngồi khóc trẻ, vợ yếu chạy tìm chồng,…), nhiều biện pháp tu từ được sử dụng thành công (câu 14, 15).

– Giọng điệu thay đổi theo dòng cảm xúc: đoạn 2 sôi nổi, hào hứng như reo vui cùng chiến thắng của nghĩa quân, đoạn 3 chuyển sang trầm lắng, thống thiết, có lúc như nức nở, xót xa (câu 24, 25), có lúc như tiếng kêu thương ai oán (câu 27); đoạn 4 trang nghiêm như một lời khấn nguyện thiêng liêng.

LUYỆN TẬP

1. Đọc diễn cảm bài văn tế.

2. Nói về quan niệm sống của ông cha ta thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, Giáo sư Trần Văn Giàu đã viết: “Cái sống được cha ông ta quan niệm là không thể tách rời với hai chữ nhục, vinh. Mà nhục hay vinh là sự đánh giá theo thái độ chính trị đối với cuộc xâm lược của Tây: đánh Tây là vinh, theo Tây là nhục. Anh (chị) hãy viết một đoạn văn phân tích những câu trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc thể hiện đầy đủ, sâu sắc triết lí nhân sinh đó.

Gợi ý trả lời

Bài tập này yêu cầu: Hiểu nhận định của Giáo sư Trần Văn Giàu, biết vận dụng để tìm và phân tích những câu văn hay, thể hiện đầy đủ triết lí nhân sinh đó trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.

a) Giải thích nhận định của Giáo sư Trần Văn Giàu. (Lưu ý: bối cảnh lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp những năm cuối thế kỉ XIX; mối tương quan giữa sự sống – chết của cá nhân với lẽ nhục – vinh; quan niệm về lẽ nhục – vinh ở thời đại đó).

b) Tìm và phân tích những câu mà anh (chị) cho là hay và thể hiện đầy đủ, sâu sắc quan niệm sống đó.

3 Câu Thi Online_Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc_Đề 2

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Nhớ linh xưa: Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó. Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ. Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó. Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa, mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ. Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ. Một mối xa như đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó. Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

(Trích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Nguyễn Đình Chiểu, Ngữ văn 11, tập một, NXB Giáo dục – 2009, tr.61)

a. Phân tích ý nghĩa biểu đạt và ý nghĩa biểu cảm của từ ” cui cút” trong văn bản trên.

b. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh đặc điểm nào ở những người nông dân trong các chi tiết: Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.

c. Phân tích biện pháp tu từ được sử dụng trong các lời văn: trông tin quan như trời hạn trông mưa; ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.

Hình Ảnh Người Nông Dân Qua Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc

I. Mở bài:

Thế kỉ XIX là thời ký lịch sử “đau thương nhưng vĩ đại” của dân tộc ta. Ở thế kỉ ấy , có một nhà thơ mù nhưng tròng lòng sáng như gương ,người đã thấy kết những gì mà bao nhiêu người mắt sáng không nhận ra. Người đó là nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Và, trong văn học Việt Nam, cho đến Nguyễn Đình Chiểu, chưa có một hình tượng nhân dân nào chân thực và cảm động hơn người nghĩa sĩ tử trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của ông.

II. Thân bài:

Nói đúng ra, trước Nguyễn Đình Chiểu, con người bình thường cũng xuất hiện trong văn chương Việt Nam. Tuy nhiên, đó hoặc là những ngư phủ, tiều phu hình bóng thấp thoáng, khi xa khi gần trong thơ bà Huyện Thanh Quan ,hoặc là đám đông lố nhố, hằng ngày là cục đất củ khoai, khi có dịp trở nên những “kiêu binh” lỗ mãng trong Hoàng Lê nhất thống chí.

Người nông dân xuất hiện trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu hoàn toàn khác hẳn. Họ thật sự là những người bình thường, là “dân áp , dân lân”, “ngoài cật có một manh áo vải”. Bản tính lại hiền lành, chất phác, quanh năm suốt tháng “côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó”. Bên trong luỹ tre làng, họ “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”, thành thục với nghề nông trang: Việc cuốc cầy, việc bừa, việc cấy, tay vốn làm quen. Nói như nhà thơ Thanh Thảo sau này, họ lấm láp sình lầy ấy đã bước vào thơ Đồ Chiểu. Đành rằng nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã có tấm lòng sáng để phát hiện ra họ ,nhưng trước hết bởi dù không áo mão cân đai phẩm hàm văn võ / họ để lại những vệt bùn làm vinh dự cho thơ. Đó chính là tấm lòng yêu nước ,trương nghĩa của người nông dân .

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.

Lòng yêu nước không độc quyền của ai. Huống chi, với những người nông dân chân chất, khi “mùi tinh chiến vấy vá đã ba năm” thì họ “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Vì thế, dù là dân ấp, dân lân, trong tay chỉ còn một tầm vông, họ đã sẵn sàng xả thân vì nghĩa cả:

Hoả mai đánh bằng rơm con cúi , cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ. Chi nhọc nhằn quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới ,coi giặc như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to ,xô cửa xông vào ,liều mình như chẳng có. Kẻ đâm ngang ,người chém ngược ,làm cho mã tà ,ma lí hồn kinh; bọn hè trước ,lũ ó sau ,trối kệ tàu thiếc ,tàu đồng đung nổ.

Cuộc đối đầu một mất một còn giữa những người nông dân yêu nước với kẻ thù là cuộc đối đầu không cân sức. Họ thất thế ngay từ ban đầu khi tự giác đúng lên ,không có ai tổ chức ( ai đòi ,ai bắt ) ,chẳng có binh thư ,binh pháp .còn quân giặc thì chuẩn bị bài bản ,có quy mô , quy củ. Họ thất thế khi xung trận mà ngoài cật có một manh áo vải ,trong tay cầm ngon tầm vông ,còn kẻ thù lại có tàu sắt tàu đồng , đạn nhỏ , đạn to. Song chí căm thù ,lòng yêu nước đã khiến những người nông dân trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ ,liều mình như chẳng có ai. Ai cũng biết cái giá cuối cùng của hành động ấy. Nhưng nghĩa sĩ nông dân càng biết rõ điều đó:

Một giấc sa trường rằng chữ hạnh ,nào hay da ngựa bọc thây; trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm trao mộ.

Những nghĩa sĩ nông dân trở thành “những anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang” ( Phạm Văn Đồng ) .Hình tượng người nghĩa sĩ chân đất lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam đã mang hình dáng đầy bi tráng. Nó như một tượng đài sừng sững tạc vào không gian lẫn với thời gian để nói với muôn đời rằng: Thác mà trả nước non rồi nợ ,danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ ,tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.

III. Kết bài:

Sự gắn bó ,lòng yêu thương và cảm phục đã khiến Nguyễn Đình Chiểu ghi tạc vào thơ văn mình hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc thật bi tráng .Hình tượng ấy sức nặng của một thời đại “nước mắt anh hùng lau chẳng ráo” và tấm lòng yêu thương bi thiết của nhà thơ mù đất Đồng Nai – Gia Định .Những người anh hùng “sống đánh giặc , thác cũng đánh giặc”. Còn nhà thơ của họ đã dựng lại tượng đài ấy “nghìn năm” trong ký ức tâm hồn của người đời bằng văn chương.

chúng tôi

Nobel Y Học 2023 : Tiến Sĩ Nhật Ohsumi Và Tế Bào Tự Hủy

Mùa Nobel 2023 đã mở đầu với Nobel Y học. Khôi nguyên năm nay là giáo sư Nhật Bản Yoshinori Ohsumi và công trình nghiên cứu hiện tượng « tế bào tự phân hủy và tái tạo ». Cơ chế « thực bào » giúp tìm hiểu hiện tượng tế bào tái sinh hay tự hủy và cách thức cơ thể thích ứng khi nhịn đói hay bị nhiễm trùng.

Theo tuyên bố của Ủy ban Nobel Y Học Thụy Điển khi công bố giải thưởng cao quý nhất được trông đợi hàng năm tại Stockholm, thì việc « biến đổi gen của hiện tượng tế bào tự hủy có liên can đến nhiều căn bệnh như ung thư và hệ thống thần kinh ».

Hiện tượng này được khám phá trong thập niên 1960. Các nhà nghiên cứu lần đầu tiên phát hiện một số tế bào tự phân hủy các chất sống của chính mình qua một bào quan gọi là lysosome.

Kiến thức về hiện tượng « tái tạo hay tự hủy » này rất còn hạn chế cho đến thập niên 1990. Vào thời điểm này, giáo sư Yoshinori Ohsumi đã chứng minh một cách « sáng chói » qua thí nghiệm với men và nhận diện được « gen » điều hành hiện tượng « autophagie ». Sau đó, Yoshinori Ohsumi khám phá ra các « cơ chế vận hành ngấm ngầm bên dưới » mà thật ra là do cơ thể con người thực hiện.

Khám phá của giáo sư Yoshinori Ohsumi cho phép tìm hiểu vì sao tế bào bình thường lại biến đổi thành tế bào ung thư hay tự hủy trong trường hợp tế bào thần kinh, gây bệnh Parkinson.

Sinh quán tại Fukuoka, giáo sư Yoshinori Ohsumi năm nay 71 tuổi. Đậu tiến sĩ năm 1974 ở đại học Tokyo. Sau ba năm nghiên cứu ở đại học Rockefeller, New York, ông hồi hương và lập phòng thí nghiệm riêng ở Tokyo. Từ năm 2009, ông giảng dạy tại đại học Tokyo.

Khi được viện Karolinska điện thọai báo tin trước, giáo sư Yoshinori Ohsumi tỏ ra khá ngạc nhiên, không ngờ công trình của mình được ân thưởng.

Thư TinHãy nhận thư tin hàng ngày của RFI: Bản tin thời sự, phóng sự, phỏng vấn, phân tích, chân dung, tạp chí

Đăng ký

Tải ứng dụng RFI để theo dõi toàn bộ thời sự quốc tế

Download_on_the_App_Store_Badge_VN_RGB_blk_100217

google-play-badge_vi