Skkn Một Số Biện Pháp Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 2 / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Ictu-hanoi.edu.vn

Skkn Một Số Biện Pháp Dạy Học Sinh Lớp 2 Giải Toán Có Lời Văn

1.1. Lý do chọn đề tài: Đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy Đại hội Đảng lần thứ XI đã có nghị quyết về giáo dục đó là: “Nâng cao giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn.” Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với giáo dục. Bộ giáo dục – đào tạo đã chủ trương đổi mới chương trình tiểu học theo các mục tiêu: Tiếp tục tăng cường thực hiện giáo dục toàn diện (Đức, trí, thể, mỹ và các kỹ năng cơ bản) đảm bảo sự cân đối hài hoà giữa các lĩnh vực học tập và giáo dục ở nhà trường tiểu học. Bậc tiểu học là bậc đầu tiên của hệ thống giáo dục thuộc nền văn minh nhà trường của mỗi quốc gia. Là bậc học tạo những cơ sở ban đầu rất cơ bản và bền vững cho trẻ tiếp tục học lên bậc học trên, hình thành những cơ sở ban đầu tạo ra những con người có “tài”, có “đức”. Những gì thuộc về trí thức và kỹ năng về hành vi và tình người được định hình ở bậc Tiểu học và nó sẽ theo suốt cuộc đời mỗi em như : kỹ năng tính toán trong cuộc sống hằng ngày Những gì được hình thành và định hình ở trẻ rất khó thay đổi, cải tạo lại. Chính vì vậy môn Toán ở trường Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động trí tuệ rất lớn cho học sinh. [1] Hiện nay trong các trường đã và đang vận dụng phương pháp dạy học đổi mới, đó là cách dạy hướng vào người học hay còn gọi là “Lấy học sinh làm trung tâm”, người thầy là người hướng dẫn chỉ đạo trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức của học sinh, với các môn học nói chung và môn Toán nói riêng. Để vận dụng tốt được cách dạy học mới này đòi hỏi người giáo viên phải tâm huyết với nghề, phải dày công nghiên cứu tìm ra giải pháp thích hợp với đối tượng học sinh mình dạy. Qua xem xét và nghiên cứu thực tế dạy toán có lời văn của lớp 2 trường Tiểu học Quảng Lưu. Tôi thấy chỉ được khoảng 30% biết giải toán, còn 70% rất lơ mơ, lúng túng những bài toán có lời văn. Dạy học toán có lời văn là một bộ phận kiến thức toán học hoàn chỉnh cho học sinh Tiểu học. Mỗi bài toán có lời văn là một tình huống có vấn đề buộc các em phải tư duy, suy luận và phân tích tổng hợp để giải quyết vấn đề. Qua giảng dạy thực tế của lớp 2 những năm trước, tôi thấy học sinh gặp rất nhiều khó khăn về tính toán, tư duy, kĩ năng trong việc giải toán có lời văn. Chính vì những lý do trên bản thân tôi chọn viết sáng kiến kinh nghiÖm về: “Một số biện pháp dạy học sinh lớp 2 giải toán có lời văn” 1.2. Mục đích nghiên cứu: – Nghiên cứu đề tài này nhằm giúp bản thân tôi cũng như đồng nghiệp có được những hiểu biết cơ bản về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 trong nhà trường Tiểu học hiện nay. Qua đề tài này tôi có điều kiện học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp để tìm ra phương pháp hiệu quả nhất về rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 nói riêng và nâng cao chất lượng dạy học môn Toán ở cấp Tiểu học nói chung. – Giúp học sinh phát triển các kỹ năng giải toán có lời văn ở lớp 2 thành thạo và vận dụng được các phép tính nhân chia vào giải toán có lời văn và kỹ năng tính toán trong cuộc sống hằng ngày. Qua đó bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng; hứng thú đọc sách, nghiên cứu và yêu thích học Toán. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Những biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 ở trường Tiểu học Quảng Lưu – Quảng Xương – Thanh Hóa. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp trực quan Phương pháp hỏi đáp (đàm thoại) Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề [2] 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm: 2.1.Cơ sở lí luận của việc giải toán có lời văn ở lớp 2: 2.1.1. Vị trí và tầm quan trọng của môn toán lớp 2: Môn Toán là một môn học khó đối với tất cả các lớp học và giải toán có lời văn lại càng khó hơn đối với các em đầu cấp. Toán lớp 2 là môn học có vị trí gần như là nền móng, là cái gốc, là điểm xuất phát của cả một bộ môn khoa học. Các em học tốt và giải các bài toán có lời văn một cách thành thạo là điểm khởi đầu cho các môn học khác, giúp các em lớn lên nhiều em trở thành tiến sĩ, kĩ sư, nhà giáo, nhà khoa học, nhà thơ… trở thành những người lao động sáng tạo trên mọi lĩnh vực sản xuất và đời sống; trên tay có máy tính xách tay, trong túi có máy tính bỏ túi… nhưng các em không nắm được các công thức toán học để vận dụng vào cuộc sống thường ngày thì máy xách tay, máy tính bỏ túi, điện thoại, cũng vô giá trị. Vì vậy việc học toán rất là quan trọng và những bài toán giải có lời văn ban đầu các em cần phải giải thành thạo. Từ đó giúp các em tự tin trong học toán. Đối với mạch kiến thức: “Giải toán có lời văn” là một trong năm mạch kiến thức cơ bản xuyên suốt chương trình Toán cấp Tiểu học. Thông qua cách giải toán có lời văn, các em được phát triển trí tuệ, được rèn luyện kỹ năng tổng hợp: đọc, viết, diễn đạt, trình bày, tính toán. Giải toán có lời văn là mạch kiến thức tổng hợp của các mạch kiến thức toán học, giải toán có lời văn các em sẽ được giải các loại toán về số học, các yếu tố đại số, các yếu tố hình học và đo đại lượng. Toán có lời văn là chiếc cầu nối giữa toán học và thực tế đời sống, giữa toán học với các môn học khác. 2.1.2. Vai trò của việc dạy giải toán cho học sinh lớp 2: Với việc dạy và rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 là một việc khó và rất quan trọng của môn Toán. Thông qua dạy giải toán có lời văn, giáo viên đã giúp học sinh xác định được cấu trúc giải một bài toán có đầy đủ các phần (tóm tắt, bài giải, câu lời giải, phép tính và đáp số). Giúp học sinh dễ tìm hiểu những nội dung có trong bài toán và qua đó góp phần giáo dục học sinh về mọi mặt. Mặt khác, học sinh hiểu và biết cách giải bài toán có lời văn ngay từ lớp 2 sẽ thuận lợi hơn khi theo học các lớp trên và áp dụng giải những bài tập khó hơn, phức tạp hơn. 2.1.3. Nội dung chương trình của toán lớp 2 loại bài toán giải có lời văn: Chương trình Toán 2 gồm 175 tiết, trong đó có đưa phần ôn tập về dạng toán thêm, bớt ở lớp 1 và phần lớn là ở 2 dạng toán mới về giải toán có lời văn (Bài toán về nhiều hơn – Bài toán về ít hơn) vào học kỳ I và chia thành hai giai đoạn: – Giai đoạn 1: Giải các bài toán có lời văn bằng một phép tính cộng. – Giai đoạn 2: Giải các bài toán có lời văn bằng một phép tính trừ. [3],[4],[5] 2.2. Thực trạng: 2.2.1 Tình hình địa phương và nhà trường: Quảng Lưu là một xã nằm ở phía đông huyện Quảng Xương là một xã thuộc vùng khó của huyện Quảng Xương. Nền kinh tế của nhân dân còn thấp, chưa đồng đều. Bố mẹ chủ yếu đi làm ăn xa, để con ở nhà với ông bà, thậm chí có em ở nhà với anh, chị cũng là học sinh cấp 1, 2. Điều kiện kinh tế còn khó khăn nên chưa có điều kiện quan tâm đến việc học tập của con. Đa số học sinh ngoài giờ học còn phải giúp bố mẹ công việc gia đình. Có lẽ vì vậy mà thời gian học ở nhà của các em ít và không được sự bố mẹ hướng dẫn thêm cho các em học ở nhà. Những hạn chế này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng học tập nói chung đối với môn toán nói riêng và đặc biệt là việc học giải toán có lời văn của học sinh. Để nâng cao chất lượng của học sinh, tôi đã chú trọng đến các môn học nói chung và nhất là môn toán, một môn học khó đối với học sinh. Trọng tâm hơn là chú trọng đến việc học giải toán có lời văn tốt hơn. 2.2.2. Thực trạng của việc tố chức dạy học rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2: * Những việc làm được: – Về giáo viên: Những năm học gần đây, chất lượng môn toán ngày càng đi lên kể cả chất lượng đại trà và chất lượng mũi nhọn. Bam giám hiệu đã chú trọng đến việc đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các môn học trong đó có môn toán. Bam giám hiệu đã tổ chức cho giáo viên dạy đối chứng chuyên đề, thăm lớp dự giờ đồng nghiệp để nâng cao tay nghề. Qua những tiết dự giờ đồng nghiệp, bản thân tôi muốn học sinh trường Tiểu học Quảng Lưu giải toán có lời văn tốt hơn nữa nên tôi ứng dụng biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học lớp 2E, lớp tôi chủ nhiệm và giảng dạy.. – Về học sinh: Lớp tôi chủ nhiệm có 32 em học sinh, đa số các em ngoan, chăm học. Đầu năm học, tôi đã kiểm tra đồ dùng học tập, sách, vở của từng em nên lớp tôi 100% học sinh có đủ sách giáo khoa, đồ dùng học tập phục vụ các môn học. Lớp tôi có khoảng 32% học sinh trong diện tiếp thu bài nhanh ở môn toán. Tôi đã xây dựng được nề nếp học tập trong lớp. Các em đã có thói quen học tập cá nhân, học theo nhóm, đôi bạn cùng tiến bộ. * Những việc chưa làm được: – Đối với giáo viên: Những tiết dự giờ đồng nghiệp trong trường, qua các vòng thao giảng để chọn giáo viên dạy giỏi cấp trường và qua những năm tháng giảng dạy, tôi nhận thấy phương pháp dạy dạng giải toán có lời văn ở một số giáo viên chưa phù hợp với đối tượng học sinh lớp 2. Từ cách dẫn dắt, diễn đạt của giáo viên còn lúng túng, khó hiểu đối với học sinh và hình thành cho học sinh giống như một bài mẫu để học sinh bắt chước. Phương pháp truyền thống theo lối mòn chủ yếu của giáo viên là đọc đầu bài cho học sinh nghe, (hoặc nhìn sách) rồi sau đó gợi ý học sinh tìm lời giải một cách chung chung không cụ thể, học sinh không hiểu bắt đầu viết lời giải như thế nào? Dựa vào đâu?… Vì vậy chưa khắc sâu được kiến thức cho học sinh dẫn đến học sinh còn lúng túng trong cách giải, giải sai. – Đối với học sinh: Học sinh lớp 2, bước đầu các em mới được làm quen và giải toán có lời văn về dạng “Thêm – Bớt”. Các em còn lúng túng trong cách giải, vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng tư duy lôgic của các em còn rất hạn chế. Hơn nữa một số học sinh chưa biết cách tự học, chưa tự giác trong học tập còn phải nhắc nhở, đôn đốc. Có em có thể viết được phép tính và tính đúng kết quả của bài nhưng không thể trả lời hoặc lý giải là tại sao các em lại có được phép tính như vậy. Một số em chưa biết tóm tắt bài toán, chưa biết phân tích đề toán để tìm ra cách giải, chưa biết trình bày bài giải một cách đầy đủ, diễn đạt còn quá vụng về, thiếu lôgic. Một số em học toán và giải toán một cách máy móc, bắt chước bài mẫu, chưa linh động, sáng tạo trong giải toán có lời văn. Học sinh còn lẫn lộn giữa giải toán có lời văn với thực phép hiện tính, chưa phân biệt được cái đã cho và cái phải tìm trong giải bài toán có lời văn. Qua khảo sát thực tế chất lượng giải toán có lời văn ở lớp 2E, lớp tôi chủ nhiệm và lớp 2B do cô Nguyễn Thị Hà chủ nhiệm giữa kì 1, năm học 2017 – 2018 như sau: Đề bài: Câu 1: Hà có 25 que tính, Lan có nhiều hơn Hà 5 que tính. Hỏi Lan có bao nhiêu que tính? Câu 2: Giải bài toán có tóm tắt sau: – Hướng dẫn học sinh tóm tắt: 10 viên bi Hùng: 3 viên bi Cường: ? viên bi Kết quả khảo sát lần 1 Lớp Sĩ số Học sinh làm bài tốt Học sinh làm đúng phép tính, sai lời giải(hoặc đúng lời giải, sai phép tính Học sinh chưa hiểu cách làm bài giải, làm sai cả lời giải và phép tính 2B 30 em SL TL SL TL SL TL 14 46,7% 10 33,3% 6 20% 2E 32 em 13 40,6% 11 34,4% 8 25% Từ kết quả khảo sát chất lượng ở hai lớp, tôi thấy số học sinh làm sai phép tính và lời giải chiếm tỷ lệ khá cao, lớp 2B: 6em/ 20%; Lớp 2E: 8 em/25%. Phần lớn là học sinh gặp khó khăn trong việc tìm câu lời giải cho bài toán, có nhiều em quên ghi đơn vị ở kết quả của phép tính và ở đáp số. * Nguyên nhân của những tồn tại và hạn chế trên: Ở lớp 1 các em mới được làm quen với giải toán có lời văn về dạng toán “Thêm – Bớt”, các em còn lúng túng trong việc giải toán. Lên lớp 2, ngay đầu năm các em được ôn lại phần giải toán có lời văn về dạng “Thêm – Bớt”. Và bắt đầu từ tuần 5, các em chuyển sang dạng giải toán có lời văn “Bài toán về nhiều hơn”. Dạng toán này, các em chỉ được học trong 2 tiết, các em chưa nắm vững cách giải dạng toán này lại tiếp tục học dạng mới về giải toán dạng “Bài toán về ít hơn”. Vì vậy một số em còn lẫn lộn giữa dạng toán “Thêm – Bớt”, dạng toán “Bài toán về nhiều hơn” và dạng toán “Bài toán về ít hơn”. Một số em còn nhút nhát, không tự tin, không chịu suy nghĩ tìm tòi lời giải. Các em chưa mạnh dạn trao đổi với bạn, với cô giáo khi chưa hiểu yêu cầu của bài nên hiểu thế nào làm thế ấy dẫn đến làm sai. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề dạy giải toán có lời văn ở lớp 2: 2.3.1. Đối với giáo viên dạy lớp 2: – Để giảng dạy tốt môn Toán lớp 2 nói chung và giảng dạy phần “Giải bài toán có lời văn” nói riêng, việc đầu tiên mỗi giáo viên phải nắm thật chắc nội dung chương trình, sách giáo khoa. – Luôn học hỏi kinh nghiệm ở đồng nghiệp, có đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình. – Lựa chọn câu hỏi sao cho gần gũi với lời giải, học sinh chỉ cần thay đổi chút ít về từ để được câu lời giải thích hợp. – Gợi mở bằng cách cài “cốt câu” lời giải vào tóm tắt để học sinh có thể dựa vào tóm tắt mà viết câu lời giải. – Khuyến khích học sinh tìm ra cách nêu câu lời giải khác nhau cho lời giải. Ví dụ: Em hái được 12 bông hoa, chị hái đươc nhiều hơn em 5 bông hoa. Hỏi chị hái được bao nhiêu bông hoa? Học sinh có thể đặt lời giải theo rất nhiều cách như: + Chị hái được số bông hoa là: …….. + Số bông hoa chị hái được là: ………. 2.3.2. Hướng dẫn học sinh nắm vững các bước làm toán có lời văn lớp 2 và khắc phục những lỗi sai khi giải toán có lời văn lớp 2: Qua đề tài này, tôi hy vọng giúp cho giáo viên đang giảng dạy ở lớp 2 trường Tiểu học Quảng Lưu hướng dẫn học sinh khắc phục những lỗi sai khi giải toán có lời văn với nội dung thực tế gần gũi và gắn liền với cuộc sống đời thường của học sinh, trong đó có các dạng giải toán có lời văn: – Bài toán về nhiều hơn. – Bài toán về ít hơn. Qua kinh nghiệm 28 năm công tác, tôi nhận thấy học sinh thường mắc những lỗi sai khi giải toán có lời văn như sau: Ví dụ: Tấm vải xanh dài 52cm, tấm vải đỏ dài hơn tấm vải xanh 6cm. Hỏi tấm vải đỏ dài bao nhiêu xăng – ti – mét? – Sai về đặt lời giải (hoặc dùng từ chưa chính xác) như: Học sinh có thể đặt lời giải cho bài giải như sau: Tấm vải xanh dài mấy cm: Hoặc: Tấm vải đỏ dài mấy xăng – ti – mét: – Sai về phép tính (Hoặc kết quả của phép tính chưa đúng) như: 52 – 6 = 46 (cm) Hoặc: 52cm + 6cm = 58(cm) – Thiếu đơn vị đo ở phép tính như: 52 + 6 = 52 – Có học sinh khi giải bài toán quên không ghi đáp số (Hoặc thiếu đơn vị đo ở đáp số) Để giúp học sinh lớp 2 khắc phục những lỗi sai trên về giải toán có lời văn, tôi tiến hành theo 5 bước sau: Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán: Thông qua việc đọc bài toán, học sinh phải đọc kĩ để hiểu rõ bài toán cho biết gì? Cho biết gì? Bài toán hỏi gì? Khi đọc bài toán phải hiểu rõ tình huống toán học được diễn đạt theo ngôn ngữ thông thường sau đó học sinh “thuật lại vắn tắt bài toán mà không cần đọc lại nguyên văn đề bài, đó là bước 1. Bước 2: Tóm tắt bài toán: Là bước quan trọng để thể hiện phần trọng tâm và toát lên những cái phải tìm của đề bài. Bước 3: Tìm tòi cách giải bài toán: Gắn liền với việc phân tích các giữ liệu, điều kiện và câu hỏi của bài toán nhằm xác lập mối liên hệ giữa chúng và tìm được các phép tính số học thích hợp. Minh họa bài toán bằng tóm tắt đề toán, dùng sơ đề hoặc dùng mẫu thích hợp, tranh, ảnh Lập kế hoạch giải bài toán, có hai hình thức thể hiện: Đi từ câu hỏi của bài toán đến với số liệu, hoặc đi từ số liệu đến các câu hỏi của bài toán. Ví dụ: Giang hái được 24 quả cam, Sơn hái được nhiều hơn Giang 5 quả cam. Hỏi Sơn hái được bao nhiêu quả cam? Xuất phát của bài toán đến giữ kiện: – Bài toán hỏi gì? (Giang hái được bao nhiêu quả cam?) – Có thể biết ngay chưa? Vì sao? – Có thể biết được số quả cam Sơn hái được nhiều hơn Giang bao nhiêu quả cam chưa? Vì sao? – Vậy việc đầu tiên các em phải tìm cái gì? – Tiếp theo là làm gì? Bằng cách nào? Đã trả lời lời câu hỏi của bài toán chưa? Xuất phát từ giữ kiện đến câu hỏi của bài toán. Kết quả cuối cùng có phải là đáp số của bài toán không? Bước 4: Thực hiện cách giải: Bài giải Sơn hái được số quả cam là: 24 + 5 = 29 (quả) Đáp số: 29 quả cam Bước 5: Cách giải bài toán: Phân tích cách giải đúng hay sai, sai ở chỗ nào để sửa chữa. *) Hướng dẫn học sinh lớp 2 giải bài toán có lời văn, thông qua ví dụ sau: Ví dụ: Lan hái được 15 bông hoa, Huệ hái được nhiều hơn Lan 4 bông hao. Hỏi Huệ hái được bao nhiêu bông hoa? Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán: – Bài toàn này thuộc loại toán nào? – Đề bài cho chúng ta biết gì? – Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu bước 2: Tóm tăt đề toán: Biểu thị số bông hoa bằng sơ đồ đoạn thẳng 15 bông hoa 4 bông hoa Lan Huệ ? bông hoa – Tìm cách giải bài toán: Nhìn vào tóm tắt cho thấy Huệ có nhiều hơn Lan 4 bông hoa. – Muốn tìm số bông hoa của Huệ ta phải làm thế nào? Thực hiện cách giải bài toán: Bài giải Huệ hái được số bông hoa là: 15 + 4 = 19 (bông) Đáp số: 19 bông hoa Ví dụ: Phương Chi được cô giáo thưởng 10 quyển vở, Ánh Ngọc được cô giáo thưởng ít hơn Phương Chi 3 quyển vở. Hỏi Ánh Ngọc được cô giáo thưởng mấy quyển vở? – Hướng dẫn học sinh tóm tắt: 10 quyển vở Phương Chi: 3 quyển vở Ánh Ngọc: ? quyển vở Bài giải Ánh Ngọc được cô giáo thưởng số quyển vở là: 10 – 3 = 7 (quyển) Đáp số: 7 quyển vở – Kiểm tra bài giải: Qua ví dụ trên em nào biết: Muốn làm một bài toán có lời văn thì ta phải thực hiện mấy bước? (Thực hiện 5 bước) – Học sinh xây dựng thành ghi nhớ. – Giáo viên ghi lên bảng từng bước sau đó gọi 1, 2 học sinh đọc to cho cả lớp nghe. 2.3.3. Lựa chọn phương pháp phù hợp để dạy dạng bài: “Giải bài toán có lời văn” ở lớp hai: * Phương pháp trực quan: Khi dạy “Giải bài toán có lời văn” cho học sinh lớp 2 thường sử dụng phương pháp trực quan giúp học sinh tìm hiểu đề bài, tóm tắt đề toán thông qua việc sử dụng tranh ảnh, vật mẫu, sơ đồ giúp học sinh dễ hiểu đề bài hơn từ đó tìm ra đường lối giải một cách thuận lợi. Đặc biệt trong sách giáo khoa Toán 2 có hai loại tranh vẽ giúp học sinh “Giải toán có lời văn” đó là: một loại gợi ra phép cộng, một loại gợi ra phép trừ. Như vậy chỉ cần nhìn vào tranh vẽ học sinh đã định ra được cách giải bài toán. Trong những trường hợp này bắt buộc giáo viên phải sử dụng tranh vẽ và phương pháp trực quan. [2] * Phương pháp hỏi đáp (đàm thoại): Sử dụng khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phân tích đề bài, tìm cách giải, chữa bài làm của học sinh, nhận xét đánh giá bài làm của bạn … Giáo viên đặt ra những câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh trả lời như: Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì? Bài toán yêu cầu tìm gì. Gợi mở để dẫn dắt học sinh thông qua những dữ kiện đã biết để tìm cái chưa biết, cần tìm. Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học giải toán có lời văn lớp 2 nói riêng phải sử dụng phương pháp nàythật khéo léo, nhẹ nhàng, dùng các từ ngữ dễ hiểu để gợi ý để học sinh dễ hiểu và các em mới nhớ lâu. [2] * Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề: Với mục đích giúp các em khắc sâu những kiến thức về “Giải toán có lời văn” trong quá trình giảng dạy giáo viên nên áp dụng phương pháp dạy học này. Giáo viên có thể tạo tình huống có vấn đề bằng cách cho sẵn lời giải, học sinh tự đặt phép tính hoặc cho sẵn phép tính học sinh đặt câu lời giải. Cho hình vẽ học sinh đặt lời bài toán và giải. Hoặc giáo viên cho phần biết – học sinh tự nêu phần hỏi và giải bài toán hay ngược lại. 2.3.4. Đổi mới phương pháp dạy học:   Lứa tuổi học sinh lớp 2, lứa t

Skkn Một Số Biện Pháp Hướng Dẫn Học Sinh Lớp 3 Giải Toán Có Lời Văn

1.1 LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Để phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ là mục tiêu của xã hội. Nghị quyết Trung ương II của Đảng đã khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu. Chính vì vậy Đảng và nhân dân ta đã không ngừng quan tâm đến chất lượng giáo dục, đến việc đào tạo nhân tài cho đất nước. Cùng với các môn học khác ở bậc Tiểu học, môn Toán có vai trò vô cùng quan trọng, nó giúp học sinh nhận biết được số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực, nhờ đó mà học sinh có những phương pháp, kĩ năng nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh. Môn toán còn góp phần rèn luyện phương pháp suy luận, suy nghĩ đặt vấn đề và giải quyết vấn đề; góp phần phát triển óc thông minh, suy nghĩ độc lập, linh động, sáng tạo cho học sinh. Mặt khác, các kiến thức, kĩ năng môn toán ở tiểu học còn có nhiều ứng dụng trong đời sống thực tế. Qua thực tế giảng dạy ở các khối lớp, đặc biệt năm nay tôi đứng lớp ở khối 3, tôi thấy: Toán có lời văn có vị trí rất quan trọng trong chương trình Toán ở trường tiểu học, vì: + Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận dụng và hiểu sâu hơn kiến thức về số học, đo lường, yếu tố đại số, các yếu tố hình học đã được học trong môn toán ở tểu học. Hơn thế nữa phần lớn các biểu tượng, khái niệm, quy tắc, tính chất toán học đều được học sinh tiếp thu qua con đường giải toán. + Thông qua nội dung thực tế đa dạng của bài toán, học sinh sẽ tiếp nhận được những kiến thức phong phú về cuộc sống và có điều kiện để rèn luyện khả năng áp dụng các kiến thức toán học vào cuộc sống. + Việc giải quyết bài toán còn đòi hỏi học sinh phải biết tự xem xét vấn đề, tự mình tìm tòi cách giải quyết vấn đề, tự mình thực hiện các phép tính, tự kiểm tra lại kết quả. Do đó giải toán là một cách tốt nhất để rèn luyện đức tính kiên trì, vượt khó, cẩn thận, chu đáo, yêu thích sự chặt chẽ, chính xác. Đồng thời trong thực tế học tập của học sinh tiểu học, đặc biệt là các lớp đầu cấp việc giải toán còn có những khó khăn như: Khả năng phân tích đề của các em chưa cao, nhất là đối với các bài toán có những dữ liệu chưa rõ ràng, các em thường trình bày lời giải chưa chính xác, cách dẫn dắt lời giải hay sai, có khi các em còn rất ngại làm, ngại giải toán có lời văn. Xuất phát từ những lí do trên, tôi nhận thấy việc giúp học sinh giải toán có lời văn lớp 3 là vấn đề rất cần thiết nên ngay từ đầu năm học( 2016 – 2017) khi được phân công dạy lớp 3 tôi đã trăn trở, suy nghĩ và mạnh dạn tìm hiểu về đề tài: “ Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 3 giải toán có lời văn” để tìm ra phương pháp thích hợp hướng dẫn học sinh thực hiện giải từng dạng toán và nhằm giúp cho việc giải toán có lời văn ở học sinh lớp 3 đạt kết quả cao. Trong quá trình nghiên cứu sẽ không tránh khỏi thiếu sót, tôi rất mong được sự góp ý, nhận xét của Hội đồng khoa học, của các đồng nghiệp. 1.2 MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Nghiên cứu và làm sáng tỏ một số khó khăn, tồn tại trong quá trình giải toán có lời văn ở lớp 3, cách thức dạy học về nội dung giải toán. Tìm ra một số biện pháp cụ thể, nhằm hình thành và phát triển kĩ năng giải các bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3. Giúp học sinh lớp 3 biết cách giải và trình bày bài toán có lời văn, nắm chắc và thực hiện đúng quy trình bài toán. 1.3 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: Nghiên cứu tài liệu Cải tiến phương pháp dạy học về giải toán có lời văn. Dạy thực nghiệm để kiểm nghiệm các giải pháp đề ra và đề xuất ý kiến về dạy giải toán có lời văn. PHƯƠNG PHÁP: Phương pháp thực hành: Xây dựng và tổ chức các hình thức dạy học giải toán có lời văn. Phương pháp điều tra: Điều tra bằng cách phỏng vấn giáo viên, học sinh. Kiểm tra kết quả học tập để thu thập thông tin, số liệu. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Thông qua việc thiết kế các hình thức dạy học phần giải toán có lời văn và tổ chức các giờ học toán ở trên lớp, từ những kết quả đạt được tổng kết thành kinh nghiệm thực tiễn. II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận. 2.1.1. Đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học Ở học sinh tiểu học, nhất là học sinh các lớp đầu cấp, hệ thống tín hiệu thứ nhất còn chiếm nhiều ưu thế so với hệ thống tín hiệu thứ hai, do đó các em rất nhạy cảm với tác động bên ngoài. Điều này phản ánh trong nhiều hoạt động nhận thức ở lứa tuổi học sinh tiểu học. Do khả năng phân tích chưa phát triển, các em thường tri giác trên tổng thể. Tri giác không gian chịu nhiều tác động của trường tri giác gây ra các biến dạng vào “ảo giác”. Ở học sinh tiểu học sự chú ý không có chủ định còn chiếm ưu thế, sự chú ý này chưa bền vững nhất là các đối tượng ít thay đổi. Do thiếu khả năng tổng hợp, sự chú ý của học sinh tiểu học còn phân tán, mặt khác do thiếu cả khả năng phân tích nên các em dễ bị lôi cuốn vào trực quan, gợi cảm. Sự chú ý ở các em thường hướng ra bên ngoài vào hành động chứ các em chưa có khả năng hướng vào trong, hướng vào tư duy. Trí nhớ trực quan hình tượng và trí nhớ máy móc phát triển hơn trí nhớ lôgíc, ghi nhớ máy móc dễ dàng hơn ghi nhớ lôgíc, hình ảnh cụ thể dễ nhớ hơn các câu chữ trừu tượng. Trí tưởng tượng tuy có phát triển hơn nhưng tản mạn, ít có tổ chức và còn chịu tác động nhiều của hứng thú, kinh nghiệm sống và các mẫu hình đã biết. Với đặc điểm nhận thức như trên thì quá trình nhận thức môn Toán của học sinh tiểu học được phát triển qua hai giai đoạn: – Giai đoạn đầu (Từ lớp 1 đến lớp 3): sự nhận thức còn mang tính trực quan. – Giai đoạn hai (Từ lớp 4 đến lớp 5): các hoạt động tri giác phát triển và được hướng dẫn bởi các hoạt động nhận thức khác nên chính xác dần. 2.1.2. Đặc điểm của môn toán ở Tiểu học Môn Toán nói chung và môn Toán ở tiểu học nói riêng ngoài những đặc điểm chung của Toán học còn có những đặc điểm riêng: a. Vào lớp 1, học sinh lần đầu tiên được tiếp xúc với môn Toán, cụ thể là được tiếp xúc với các đối tượng của môn Toán, các quan hệ Toán học, các phép toán của Toán học…Đó là cơ sở ban đầu để làm nền tảng cho quá trình học tập môn Toán sau này. Đặc biệt đó cũng là lần đầu tiên các em được làm quen và rèn luyện các thao tác tư duy trong môn Toán như: quan sát, so sánh, tổng hợp, chứng minh…vv. b. Nội dung môn Toán ở tiểu học không có cấu trúc thành những phân môn riêng biệt như các bậc học trên mà nó là một môn học thống nhất: bao gồm những mặt kiến thức chủ yếu có mối quan hệ hữu cơ với nhau và lấy kiến thức số học làm kiến thức cốt lõi. c. Cấu trúc nội dung môn Toán ở tiểu học quán triệt vào tư tưởng của Toán học hiện đại và phù hợp với từng giai đoạn phát triển của học sinh tiểu học. d. Các kiến thức, kỹ năng của môn Toán ở tiểu học được hình thành chủ yếu bằng thực hành, luyện tập và thường xuyên được ôn tập, củng cố phát triển, vận dụng trong học tập và trong đời sống. 2.1.3. Tầm quan trọng của dạy học giải toán ở Tiểu học: Giải toán là một thành phần quan trọng trong chương trình giảng dạy môn toán ở bậc tiểu học. Nội dung của việc giải toán gắn chặt một cách hữu cơ với nội dung của số học và số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản và các yếu tố đại số, hình học có trong chương trình. Vì vậy, việc giải toán có lời văn có một vị trí quan trọng thể hiện ở các điểm sau: a) Các khái niệm và các quy tắc về toán trong sách giáo khoa, nói chung đều được giảng dạy thông qua việc giải toán. Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm hoặc thiếu sót của các em về kiến thức, kỹ năng và tư duy để giúp các em phát huy hoặc khắc phục. b) Việc kết hợp học và hành, kết hợp giảng dạy với đời sống được thực hiện thông qua việc cho học sinh giải toán, các bài toán liên hệ với cuộc sống một cách thích hợp giúp học sinh hình thành và rèn luyện những kỹ năng thực hành cần thiết trong đời sống hàng ngày, giúp các em biết vận dụng những kỹ năng đó trong cuộc sống. c) Việc giải toán có thể giúp các em thấy được nhiều khái niệm toán học, ví dụ: các số, các phép tính, các đại lượng v.v… đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được các mối quan hệ biện chứng giữa các dữ kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm v.v.. d) Việc giải toán góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính tốt của con người lao động mới. Khi giải một bài toán, tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực vì các em cần phân biệt cái gì đã cho và caí gì cần tìm, thiết lập các mối liên hệ giữa các dữ kiện giữa cái đã cho và cái phải tìm; Suy luận, nêu nên những phán đoán, rút ra những kết luận, thực hiện những phép tính cần thiết để giải quyết vấn đề đặt v.v… Hoạt động trí tuệ có trong việc giải toán góp phần giáo dục cho các em ý trí vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, chu đáo làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo v.v… 2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Năm học 2016-2017 tôi được phân công giảng dạy lớp 3A5 Trường Tiểu học Điện Biên 2. Lớp 3A5 do tôi chủ nhiệm và giảng dạy có 41 học sinh. Trong đó: – Con cán bộ công chức: 27 em. – Con gia đìnhlao động tự do: 14 em. – Nam: 21 em; nữ: 20 em. Các em ở trong phường và rải rác trên toàn thành phố, có nhiều học sinh ở xa trường việc đi lại của các em gặp rất nhiều khó khăn điều đó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các em. *Qua quá trình giảng dạy ở trường tiểu học, đặc biệt là được đứng lớp ở lớp 3, tôi thấy: mặc dù mấy năm gần đây các nhà trường đã áp dụng phương pháp mới vào quá trình dạy học, học sinh được hoạt động nhiều hơn, khả năng tư duy, kĩ năng thực hành ở học sinh được phát triển nhiều hơn, xong ở các em vẫn còn một số hạn chế về năng lực tư duy, ở thói quen mà chưa thể khắc phục được: – Một số học sinh vẫn còn tình trạng ghi nhớ máy móc, khả năng phân tích tổng hợp chưa cao, sự chú ý của các em còn dễ bị chi phối, lôi cuốn vào trực giác gợi cảm bên ngoài, khả năng cảm nhận vào bản chất còn hạn chế. -Trong toán có lời văn thì thường là các em giải được những bài toán điển hình, bởi những bài toán này các em đã nắm được công thức tính cụ thể. Còn những bài toán không có dạng điển hình hoặc là đúng dạng nhưng phải qua một vài bước mới ứng dụng được công thức giải thì các em thường không biết làm như thế nào. Từ đó về căn bản chất lượng dạy và học toán có lời văn chưa cao. Sau khi khảo sát chất lượng môn toán đầu năm học vào thời điểm tháng 9/2016(năm học 2016 – 2017) kết quả giải toán của lớp 3A5 đạt được cụ thể như sau : Sĩ số Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành 41 em SL TL SL TL SL TL 20 em 48,8% 15em 36,5 % 6 em 14,7% Từ thực tế trên tôi đã tìm hiểu và rút ra một số nguyên nhân cơ bản sau: Về phía học sinh: -Các em chưa biết cách đọc hiểu đề toán để từ đó biết tóm tắt làm rõ nội dung của đề. Do đó các em chưa biết xác định hướng giải của bài toán là bắt đầu từ đâu. -Lời giải đặt chưa lô gíc với phép tính, lời giải còn thiếu ý, chưa hoàn chỉnh. – Học sinh có thể tiếp thu rất dễ dàng các phép tính số học nhưng khi gặp toán có lời văn các em còn lúng túng và dẫn đến không hứng thú với việc giải toán nên kết quả thực hành giải toán chưa cao. *Về phía giáo viên: -GV chưa tìm hiểu rõ những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cái sai của học sinh để tìm phương pháp dạy phù hợp giúp học sinh nắm được cách giải có hệ thống và vận dụng cách giải vào bất kì bài toán nào. – GV còn sử dụng phương pháp đàm thoại nhiều trong tiết học. -GV thường cho học sinh lên chữa bài khi mà lớp làm bài chưa xong dẫn đến học sinh dưới lớp chép bài của bạn mà không tự suy nghĩ để tìm ra hướng giải bài toán. Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải toán theo yêu cầu của chương trình mới, đó là điều cần phải trao đổi nhiều đối với chúng ta – những người trực tiếp giảng dạy cho các em nhất là việc: Đặt câu lời giải cho bài toán. Như chúng ta đã biết: Trước cải cách giáo dục thì đến lớp 4, các em mới phải viết câu lời giải, còn những năm đầu cải cách giáo dục thì đến học kì 2 của lớp 3 mới phải viết câu lời giảiNhưng với yêu cầu đổi mới của giáo dục thì hiện nay ngay từ lớp 1 học sinh đã được yêu cầu viết câu lời giải, đây quả là một bước nhảy vọt khá lớn trong chương trình toán. Nhưng nếu như nắm bắt được cách giải toán ngay từ lớp 1, 2, 3 thì đến các lớp trên các em dễ dàng tiếp thu, nắm bắt và gọt giũa, tôi luyện để trang bị thêm vào hành trang kiến thức của mình để tiếp tục học tốt ở các lớp sau. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề: Qua thực tế giảng dạy ở lớp 3 cũng như sự đúc rút từ kinh nghiệm bản thân và học hỏi đồng nghiệp tôi thấy: để nâng cao chất lượng môn toán ở lớp 3 đặc biệt là giải toán có lời văn, giáo viên nên thực hiện các biện pháp sau: 2.3.1 Tìm hiểu tâm lí học sinh, giúp học sinh có hứng thú học toán có lời văn. Đặc điểm hứng thú môn học Toán của học sinh Tiểu học hiện nay nhìn chung còn phân tán, chưa bền vững, chưa ổn định, chủ yếu là hứng thú gián tiếp . Một trong những nguyên nhân của hiện trạng này là do : việc giảng dạy chưa làm cho HS nhận thức rõ ý nghĩa của môn Toán , chưa thực sự tạo tính chủ động , sáng tạo trong quá trình giải toán , cũng như chưa tạo ra bầu không khí tích cực trong quá trình học toán . Nếu tăng cường một số biện pháp tâm lí sư phạm nhằm thay đổi những nguyên nhân trên theo hướng tích cực thì hứng thú học môn Toán ở học sinh Tiểu học sẽ được nâng cao . 2.3.2 Hướng cho học sinh tự suy nghĩ làm việc, không thụ động bằng cách biết tự lập kế hoạch giải toán Việc giải toán có lời văn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính tốt của con người lao động mới. Khi giải một bài toán, tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực vì các em cần phân biệt cái gì đã cho và cái gì cần tìm, thiết lập các mối liên hệ giữa các dữ kiện giữa cái đã cho và cái phải tìm . Suy luận, nêu lên những phán đoán, rút ra những kết luận, thực hiện những phép tính cần thiết để giải quyết vấn đề đặt ra v.v… Hoạt động trí tuệ có trong việc giải toán góp phần giáo dục cho các em ý chí vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, chu đáo làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo v.v… Các em biết tự lập kế hoạch giải toán mà không thụ động . 2.3.3 Khảo sát phân loại đối tượng học sinh . *Đối với giáo viên được phân công giảng dạy môn toán, để chất lượng học toán nói chung và giải toán có lời văn nói riêng đạt kết quả tốt thì việc đầu tiên là phải khảo sát chất lượng học sinh, phân loại đối tượng học sinh một cách cụ thể để tìm hiểu mức độ học tập ở các em, từ đó đề ra kế hoạch bồi dưỡng cụ thể, áp dụng biện pháp giảng dạy cho phù hợp với từng loại đối tượng học sinh. Những em tiếp thu việc giải toán chậm thì không yêu cầu các em phải giải tất cả các bài toán có trong chương trình mà tập trung rèn cho các em làm chắc dạng toán cơ bản, điển hình. Trong các giờ học không nên ép các em phải làm đủ số lượng bài như các bạn khác trong lớp mà chỉ cho các em làm số lượng bài vừa phải với lực học của mình, nên giao bài từ dễ đến khó và động viên các em kịp thời. Như vậy sẽ giúp cho các em đỡ chán nản khi phải giải những bài toán mà các em cho là khó. 2.3..4 Hướng dẫn học sinh nắm được các bước giải một bài toán: Thông thường nếu là dạng toán điển hình thì giáo viên sẽ hướng dẫn để học sinh nhận ra dạng toán và giải theo công thức của từng dạng. Vậy với dạng toán mà khác dạng hoặc qua những bước phụ mới tìm ra được dạng quen thuộc thì học sinh sẽ lúng túng, do đó cần phải hướng dẫn học sinh nắm được cách giải mà có thể giải được bất kì bài toán nào, dạng toán nào. Ta có thể hướng dẫn học sinh: Bước 1.Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề: GV không dùng phương pháp đàm thoại để hỏi “ Bài toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu tìm gì?” mà sử dụng cách khác, ví dụ như: +Gạch một gạch dưới những điều đã cho. +Gạch hai gạch dưới những điều cần tìm. *Tóm tắt đề toán: Từ bước tìm hiểu bài ở trên đã giúp học sinh tóm tắt bài toán một cách dễ dàng. Học sinh có thể dùng kí hiệu, sơ đồ … để tóm tắt một cách ngắn gọn nhất thể hiện rõ mối quan hệ giữa các yếu tố trong bài toán. Bước 2: Định hướng cho học sinh lập kế hoạch giải bài toán: Để giải được bài toán thì phải có hướng giải, do đó phải có kế hoạch để giải bài toán theo trình tự như thế nào cho hợp lí. Thường các bài toán giải trong toán lớp 3 thường được đưa ra ở 2 dạng chính đó là các bài toán điển hình đơn giản chỉ dựa vào công thức là có thể giải được. Dạng thứ 2 là các bài toán phức tạp hơn, phải qua một vài bước trung gian thì mới vận dụng công thức để giải. Đây là dạng toán có nhiều phép tính. Bước 3: Trình bày bài toán. Ví dụ: Sau khi đọc đề toán ở trang 50 SGK Toán 3. “ Thùng thứ nhất đựng 18 l dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ nhất 6l dầu. Hỏi cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu?”. – Yêu cầu học sinh tập nêu bằng lời để tóm tắt bài toán: Thùng 1 có : 18l . Thùng 2 có: nhiều hơn 6l. Hỏi cả hai thùng: ? lít dầu. – Sau khi học sinh nêu được bằng lời để tóm tắt bài toán, tôi hướng dẫn học sinh tập tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng: Thùng 1 Thùng 2 – Sau khi hướng dẫn học sinh tóm tắt được bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng, tôi tiếp tục hướng dẫn học sinh tìm lời giải: + Nhìn vào sơ đồ ta thấy muốn tìm số lít dầu ở cả hai thùng trước hết ta phải tính gì? ( Tính số dầu ở thùng thứ hai). Yêu cầu học sinh trình bày bằng lời nói. Lời giải và phép tính tương ứng. Thùng thứ hai đựng số lít dầu là: Học sinh nêu miệng phép tính: 18 + 6 = 24 (lít) Yêu cầu học sinh nêu miệng tiếp lời giải và phép tính thứ hai: Cả hai thùng đựng số lít dầu là: 18 + 24 = 42 (lít) – Giáo viên khuyến khích các em có cách đặt lời giải khác. Tuy nhiên ở phép tính thứ hai, tôi thấy có một số em thực hiện tìm số dầu cả hai thùng bằng cách lấy 24 + 6 = 30 (lít). Đối với những em này, tôi nhận thấy các em có khả năng tư duy chưa tốt, còn chưa nắm vững yêu cầu bài toán. Đây là những trường hợp nằm trong nhóm đối tượng học sinh chưa hoàn thành. Tôi phải hướng dẫn các em hiểu rõ: Muốn tìm số dầu cả hai thùng ta phải làm gì? để các em nêu được: Lấy số dầu thùng thứ nhất + số dầu ở thùng thứ hai và giúp cho các em thấy được số dầu ở thùng thứ nhất là 18l và số dầu ở thùng thứ hai là 24l. – Sau đó yêu cầu học sinh trình bày bài giải. – Ở dạng bài này, giáo viên cũng cần cho học sinh luyện nêu miệng đề toán và tập tóm tắt đề toán bằng sơ đồ đoạn thẳng nhiều lần để các em ghi nhớ một bài toán. Ví dụ: Bài tập 3 (trang 50 – SGK toán 3) Bao gạo Bao ngô – Tôi cho học sinh đọc thầm, đọc miệng tóm tắt rồi nêu đề toán bằng lời theo yêu cầu. Học sinh: Bao gạo nặng 27 kg. Bao ngô nặng hơn bao gạo 5kg. Hỏi cả hai bao gạo và ngô nặng

Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 2

* Mặt mạnh

Phân môn Toán trong chương trình giảng dạy Toán lớp 2 chiếm một vị trí quan trọng trong bậc Tiểu học. Nó là nền tảng cho việc học tốt môn Toán ở các lớp tiếp theo của bậc Tiểu học và Trung học sau này.

Việc nâng cao chất lượng dạy học môn Toán ở Tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng, bản thân tôi cũng như nhiều bạn đồng nghiệp còn băn khoăn trăn trở, làm thế nào để nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2. bản thân tôi cần phải nghiên cứu, tìm các biện pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em giải bài toán một cách vững vàng; mặt khác giúp các em có phương pháp suy luận thông qua cách trình bày, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện. Từ đó giúp các em hứng thú, say mê học toán.

*Hạn chế

Với thực tế học sinh lớp tôi còn có một số em giải toán có lời văn thiếu chính xác, chưa đúng, tính toán còn sai, nhiều khi làm bài chưa có kỹ năng phán đoán, suy luận, không biết làm thế nào ? Các em rất sợ học. Mà môn toán là môn “Thể thao trí tuệ” vừa giúp các em giải trí tinh thần, vừa giúp việc dạy tốt môn toán là điều cần thiết mà giáo viên cần quan tâm.

Năm học 2016 – 2017 tôi được phân công dạy lớp 2. Lớp có 20 học sinh.. Cha mẹ các em đều làm nông nên việc hướng dẫn, nhắc nhở con em còn chưa được quan tâm lắm. Còn phó mặc cho nhà trường và giáo viên. Nên trong giờ học toán các em còn làm bài sai nhiều.

Tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng đầu năm như sau:

Qua kết quả khảo sát trên cho thấy tỉ lệ học sinh có khả năng chưa hoàn thành môn học này chiếm tỉ lệ khá cao, thoi thúc tôi phải tìm hiểu xem các em hỏng kiến thức toán ở nội dung nào và qua đó để giúp các em lấp được lỗ hỏng kiến thức ấy vào cuối năm học này.

Từ kết quả khảo sát biết được tỉ lệ học sinh có khả năng chưa hoàn thành môn học này chiếm tỉ lệ khá caolà do những nguyên nhân sau:

– Thứ nhất, là do các em có năng lực học tập còn khó khăn, không theo kịp chưong trình dẫn đến chán học. Đặc biệt là từ khi toàn ngành thực hiện cuộc vận động “Hai không” và đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh ” lấy điểm kiểm tra định kỳ để đánh giá” xếp loại.

– Thứ hai, phải theo hoặc phụ giúp gia đình làm ăn theo mùa vụ (coi trông nhà, không có ngưòi đưa đón đi học).

– Thứ ba, công tác phối hợp giữa gia đình và nhà trường còn hạn chế, gia đình coi việc học của con em mình là nhiệm vụ của nhà trường hoàn toàn, cũng một phần là do giáo viên còn thiếu kinh nghiệm ( Không biết học sinh mình hỏng kiến thức chỗ nào để lấp).

Qua điều tra đầu năm, tôi phân loại những em còn gặp khó khăn về loại toán điển hình nào để tôi kịp thời kèm cặp các em.

Lớp tôi có các em: Tân, Phúc, Duy, Dương, Hân, Ý, Sơn là những em còn khó khăn trong giải toán . Các em thường sợ làm loại toán này. Các em không biết giải, hay trả lời sai, làm tính không đúng.

Trong các giờ lên lớp, tôi luôn động viên các em suy nghĩ tìm ra cách giải. Tôi thường xuyên kiểm tra bài làm của em trên lớp, chấm chữa cùng với học sinh để củng cố kiến thức. Tuyên dương khen thưởng kịp thời bằng điểm số nếu các em có cố gắng (mặc dù chưa đạt yêu cầu) để các em phấn khởi học tập, xoá đi ấn tượng sợ giải toán.

Về nhà: Tôi yêu cầu các em làm lại bài toán vừa giải ở lớp để các em nắm vững cách giải. Tôi còn yêu cầu phụ huynh kết hợp chặt chẽ với giáo viên, có trách nhiệm hướng dẫn con học ở nhà giúp các em làm đầy đủ bài tập giáo viên giao. Ngoài ra tôi còn giao cho những em có năng lực giải toán mỗi em giúp một em còn khó khăn trong giải toán. Lập thành đôi bạn cùng tiến.

2. Giảng bài mới kết hợp củng cố, vận dụng kiến thức đã học

Giảng bài mới trong tiết học Toán hết sức quan trọng. Học sinh có vận dụng luyện tập giải Toán đúng hay sai là ở chỗ này. Do vậy, trong khi dạy, tôi luôn bảo đảm truyền thụ đủ nội dung kiến thức của bài học bằng cách chuẩn bị bài hết sức chu đáo, cẩn thận. Soạn bài trước vài ngày để có thêm thời giannghiên cứu, hiểu kỹ yêu cầu nội dung của bài học.

Với cách thực hiện như thế, học sinh sẽ tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng mà đầy đủ kiến thức, được củng cố kiến thức cũ có hệ thống, vận dụng giải Toán sẽ linh hoạt, không bị gò ép, phụ thuộc, tạo cho học sinh có thói quan chủ động tích cực trong giải Toán.

Ở lớp hai: Các em được ôn lại các dạng toán lớp 1 và luyện thêm các dạng toán này với các số trong phạm vi 100, giúp các em hiểu mối quan hệ giữa các đối tượng với các dữ kiện đơn giản của bài toán. Từ đó hình thành tư duy học toán cho học sinh, giúp các em phân tích, tổng hợp, giải được các dạng toán nhanh, chính xác. Bước đầu có kỹ năng trình bày bài toán.

Hình thức rèn luyện: Học sinh nhận xét dữ kiện, tóm tắt đề toán, tìm ra cách giải. Với cách làm này học sinh mạnh dạn, tự tin vào bản thân, dần dần ham thích giải toán để thể hiện khả năng chính mình.

Vai trò của người thầy rất quan trọng. Lời phát biểu của các em dù đúng hay sai, tôi cũng phải có lời động viên hợp lý. Nếu học sinh phát biểu sai, hoặc chưa đúng, tôi động viên “gần đúng rồi, em cần suy nghĩ thêm nữa, thì sẽ đúng hơn …” giúp các em cố gắng suy nghĩ làm bằng được, chứ không nên nói “sai rồi, không đúng …” làm mất hứng của học sinh, ức chế học sinh tự ti, chán học.

Bước này là bước quan trọng giúp học sinh không sợ giải toán, thích thi nhau làm để khẳng định mình, từ đó có kỹ năng giải toán vững chắc với lời giải thông thường .

Ví dụ 1 bài 3 trang 63: Mảnh vải màu xanh dài 34dm, mảnh vải màu tím ngắn hơn mảnh vải màu xanh 15dm. Hỏi mảnh vải màu tím dài bao nhiêu đê-xi-mét?

Một số học sinh trình bày bài giải như sau:

Số dm mảnh vải màu tím dài là:

34 – 15 = 19 (dm)

Đáp số: 19 dm

Hoặc:

Mảnh vải màu tím là:

34 – 15 = 19 (dm)

Đáp số: 19 dm

Tôi liền đưa ra các bài học sinh giải lên bảng, chỉ ra từng chỗ sai cụ thể cho học sinh và để học sinh so sánh đối chiếu các bài với nhau: bài trình bày sai- bài trình bày đúng để học sinh thấy được chỗ sai của mình.

Bài giải được trình bày như sau:

Độ dài mảnh vải màu tím là:

34 – 15 = 19 (dm)

Đáp số: 19 dm

Hoặc:

Mảnh vải màu tím dài là:

34 – 15 = 19 (dm)

Đáp số: 19 dm

Thường khi giải bài toán có lời văn với các số đo độ dài, học sinh thường viết cả tên đơn vị cùng với số đo hoặc viết tắt tên đơn vị đo ở câu lời giải.

Đối với bài toán có lời văn mà có số đo độ dài, tôi phải hướng dẫn học sinh cách trình bày bài giải cho đúng từ, câu trả lời đến các phép tính.

Ví dụ 2: Thùng thứ nhất đựng 25 lít dầu. Thùng thứ hai đựng 30 lít dầu. Hỏi thùng nào đựng nhiều dầu hơn và nhiều hơn bao nhiêu lít ?

Có học sinh giải như sau :

Số lít dầu thùng đựng nhiều hơn là :

30 – 25 = 5 (lít)

Đáp số : 5 lít

Tôi hỏi : Ta cần tìm điều gì ?

Học sinh trả lời : Thùng nào đựng nhiều hơn và nhiều hơn bao nhiêu lít ?

Tôi lại hỏi tiếp : Câu trả lời này đã nói rõ điều đó chưa ? Còn thiếu ý nào ?

Lúc này học sinh sẽ nhận ra trong câu trả lời này chưa nêu được thùng nào đựng nhiều hơn và phải bổ sung và chữa vào bài giải là :

Thùng thứ hai đựng nhiều hơn và nhiều hơn là :

30 – 25 = 5 (l)

Đáp số : 5 lít.

Bên cạnh việc cung cấp đủ trọng tâm bài học, rèn cách luyện tập thành thạo, tôi còn luôn quan tâm tới việc mở rộng, nâng cao kiến thức từ chính những bài tập trong SGK, vở bài tập toán.

Từ tư duy đúng, tìm được cách giải đúng giúp các em trình bày bài giải đúng

Hợp lý về lời giải, về phép tính, cách ghi tên đơn vị và ghi đáp số để hoàn thiện bài toán.

Bước này tuy đơn giản nhưng tương đối khó với học sinh. Đó là lời văn ngắn gọn, chính xác, đúng nội dung bài để trả lời (phép tính tìm gì ?) theo thứ tự.

Lời giải: lời giải – phép tính – đáp số.

Cần lưu ý:Phép tính trong giải toán có lời văn không ghi tên đơn vị (danh số) đó là phép tính trên số nên đặt tên đơn vị trong vòng đơn để giải thích, mục đích thực hiện phép tính.

Ví dụ: Lớp 2A có 37 học sinh, trong đó có 18 học sinh nữ. Hỏi lớp 2A có bao nhiêu học sinh nam?

Giáo viên phải đưa ra 1 số câu hỏi đàm thoại gợi ý học sinh gặp khó khăn trong học tập suy đoán, lựa chọn cách giải đúng.

Trước tiên phải hướng dẫn học sinh tóm tắt đầu bài.

Tóm tắt:

Lớp 2A có : 37 học sinh

Nữ : 18 học sinh

Nam : … học sinh?

Hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn chính xác.

Giải

Số học sinh nam lớp 2A có là:

37 – 18 = 19 (học sinh)

Đáp số : 19 học sinh nam.

Tìm cách giải đúng chưa đủ, giáo viên còn giúp học sinh tìm nhiều cách đặt lời giải để phát huy trí lực học sinh tạo điều kiện cho tư duy toán phát triển

Bước này đối với học sinh còn khó khăn trong giải toán là tương đối khó. Song người giáo viên phải hướng dẫn gợi mở, giúp học sinh thể hiện được khả năng giải toán của mình là cần thiết.

Ví dụ: Lan cắt được 46 bông hoa, Hoa cắt ít hơn Lan 9 bông hoa. Hỏi Hoa cắt được bao nhiêu bông hoa?

Giáo viên phải yêu cầu học sinh đọc kỹ đầu bài toán. Tóm tắt đầu bài bằng cách vẽ sơ đồ (nếu vẽ được) để tìm ra cách giải đúng, và nhiều cách khác.

Tóm tắt

Lan : 46 bông hoa

Hoa cắt ít hơn Lan : 9 bông hoa

Hoa cắt : … bông hoa?

Giải cách 1

Hoa cắt được số bông hoa là:

46 – 9 = 37 ( bông hoa)

Đáp số: 37 bông hoa

Nhìn vào sơ đồ các em tìm lời giải khác

Lan

Hoa

Có em sẽ giải như sau :

Giải cách 2

Số bông hoa Hoa cắt được là:

46 – 9 = 37 ( bông hoa)

Đáp số: 37 bông hoa

Giáo viên giải thích cho học sinh hiểu : Thực ra hai lời giải này cùng là tìm số bông hoa của Hoa cắt. Dù các em có nhìn vào sơ đồ thì vẫn là tìm số bông hoa của hoa cắt: Tôi cho học sinh nhận xét.

Các em phải chú ý tên đơn vị của mỗi phép tính. Từ đó học sinh tìm được cách giải toán triệt để bằng nhiều cách đặt lời giải khác nhau. Học sinh nắm chắc đề toán, hiểu kỹ đề, để tìm cách giải khác có lời văn chính xác, phát triển tư duy toàn diện.

Kết hợp giải toán là rèn luyện kỹ năng tính toán giúp học sinh giải toán đúng tránh nhầm lẫn khi tính toán

Vì có những em nhiều khi cách giải đúng nhưng tính toán sai dẫn đến kết quả bài toán sai. Vậy tôi phải nhắc nhở học sinh khi làm bài phải tính toán chính xác, trình bày khoa học rõ ràng. Nếu là phép + – trong bảng học thuộc để vận dụng nhanh. Nếu là các phép + – ngoài bảng các em phải đặt tính cột dọc.

6. Chấm chữa kịp thời để uốn nắn, khắc sâu kiến thức, rèn kỹ năng giải toán

Sau khi cung cấp kiến thức bài học, học sinh vận dụng giải quyếtcác bài tập trong “Vở bài tập toán 2”. Tôi luôn cố gắng đảm bảo 100 học sinh trong lớp đủ bài các bài tập.

Tuy nhiên gặp những bài khó, học sinh có lỗi lớn về đường lối giải, nhiều học sinh sai thì tôi yêu cầu học sinh nhận xét lỗi sai ở chỗ nào ? Cách sửa thế nào ?

Thường thì tôi dùng học sinh có lỗi sai đó nhận xét và sửa trước, nếu học sinh làm được điều đó có nghĩa là cùng một lúc tôi đã củng cố cho học sinh đó và đồng thời chữa chung cho nhiều em khác. Với cách làm như vậy lỗi sai không bị kéo dài, mà học sinh có thói quen làm toán đúng, chủ động giải. Tôi cố gắng chữa triệt để những lỗi sai bằng cách :

+ Học sinh chữa lỗi sai nhỏ như : Tên đơn vị, kết quả… vào ngay trong vở “Bài tập toán 2”, lỗi lớn như sai cách giải, câu trả lời chưa rõ ý thì chữa ngay vào vở toán khác do lớp quy định. Sau đó tôi kiểm tra chấm chữa, nhận xét phần chữa của học sinh, học sinh phải tự làm bài đó một lần nữa để khắc sâu bài học. Có những học sinh chữa tới hai lần mới đúng cũng được tôi kiểm tra triệt để, cuối cùng phải chữa đúng mới thôi.

+ Tôi rất chú ý coi trọng tới việc chữa bài của học sinh. Khi học sinh chữa bài, tôi yêu cầu học sinh ngoài việc chữa đúng còn phải trình bày lưu loát, sạch đẹp, rõ ràng hơn. Do đó mà học sinh chữa bài rất thận trọng, chính điều này giúp học sinh nhớ rất kỹ bài giải, lần sau gặp dạng toán khó học sinh rất ít sai sót.

III. Hiệu quả và khả năng áp dụng

Vận dụng phương pháp tổ chức các hoạt động cho học sinh vào bài dạy ở lớp tôi, tôi thấy kết quả cao hơn so với trước. Học sinh rất hứng thú tự tin và tích cực học tập, học sinh biết tư duy một cách độc đáo, linh hoạt sáng tạo. Học sinh tập trung hơn, giờ học sinh động hơn. Từ đó hiệu quả cuối năm học được nâng cao hơn rõ rệt qua bảng số liệu sau:

Kết quả cụ thể cuối năm:

Kết quả khảo sát đầu năm:

*Đối với giáo viên:

Để thực hiện dạy một tiết Toán 2 có kết quả, đặc biệt là dạy các bài giải toán có lời văn thì điều cần thiết phải sử dụng các biện pháp, giải pháp nêu trên để học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo vào việc khai thác mọi tiềm năng trí tuệ của học sinh. Qua thực tế giảng dạy cho thấy sử dụng các biện pháp, giải pháp nêu trên trong dạy học toán theo tôi là có hiệu quả, chất lượng của học sinh cao hơn, học sinh giải toán dễ dàng hơn. Bởi vì đây là các biện pháp, giải pháp tích cực, là một yêu cầu cần thiết, phù hợp với đặc điểm phát triển tâm sinh lý các em.

*Đối với học sinh:

– Giúp học sinh hứng thú và tự tin hơn trong học và hành. Qua giờ học giải toán có lời văn, ngoài những kiến thức cơ bản học sinh còn được khuyến khích và rèn cách diễn đạt, cách suy nghĩ linh hoạt, góp phần phát triển ngôn ngữ và trình độ tư duy của học sinh qua môn toán lớp 2.

Our prices are quite reasonable to encourage customers to keep using assignment writing services https://midnightpapers.com/ to achieve their academic success.

Một Số Biện Pháp Rèn Kĩ Năng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 4

Ngày viết : 5 – 12 – 2012

Ngày trình bày : 7 – 12 – 2012

Người viết : Dương Quang Bình

Trong chương trình môn toán ở lớp 4, giải toán có lời văn giữ một vai trò quan trọng. Thông qua việc giải toán các em thấy được nhiều khái niệm toán học như : các số tự nhiên, các phép tính, các đại lượng, các yếu tố hình học… đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các sự kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua việc giải toán, rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính của con người mới. Có ý thức vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, làm việc có kế hoạch, thói quen xét đoán có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc của mình, có óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo, giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm hoặc thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp học sinh phát huy những mặt đạt được và khắc phục những mặt còn thiếu sót.

Chính vì vậy việc đổi mới phương pháp dạy toán có lời văn ở cấp tiểu học chung và lớp 4 nói riêng là một việc rất cần thiết mà mỗi giáo viên tiểu học cần phải nâng cao chất lượng học toán cho học sinh.

Qua thực tế dạy học, tôi xin trình bày một số biện pháp giải toán có lời văn mà tôi đã từng sử dụng :

1. Khảo sát phân loại chất lượng học sinh đầu năm:

Qua khảo sát chất lượng đầu năm, phân loại được các đối tượng học sinh trong lớp : Giỏi- Khá- TB- Yếu để từ đó lựa chọn biện pháp phụ đạo thích hợp.

2. Nắm chắc nội dung chương trình môn toán lớp 4:

Môn Toán lớp 4 được Bộ GD & ĐT ban hành và quy định để thực hiện trong cả nước, mỗi tuần 5 tiết x 35 tuần = 175 tiết . Chương trình giải toán có lời văn ở lớp 4 được chú trọng vào các dạng sau:

+ Tìm 2 số khi biết tổng và hiệu của 2 số

+ Tìm số trung bình cộng.

+ Tìm 2 số khi biết tổng (hiệu) và tỉ số của 2 số đó.

+ Giải bài toán về đại lương tỉ lệ.

Các dạng toán được bố trí đan xen với các bài toán về số học, GV phải nắm chắc chương trình để nghiên cứu SGK, SGV, tài liệu tham khảo nhằm xây dựng kế hoạch bài dạy phù hợp với đối tượng HS để lên lớp đạt được kết quả cao.

3. Nâng cao chất lượng giờ dạy trên lớp:

Đây là biện pháp trọng tâm, để HS nắm chắc cách giải toán có lời văn, người GV cần hướng dẫn HS nắm được các bước chung trước khi làm bài.

+ Đọc kĩ đề toán để xác định yêu cầu của đề (những điều đã cho và những cái phải tìm)

+ Tóm tắt đề toán bằng sơ đồ, hình vẽ, ngôn ngữ, kí hiệu ngắn gọn.

+ Phân tích đề toán để tìm cách giải.

+ Giải bài toán và thử lại.

Ví dụ 1 : (Bài toán về Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó.)

Tổng của hai số là 70. Hiệu của hai số là 10. Tìm hai số đó.

Với bài toán trên tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề bài và giải bài toán như sau :

+ Bước 1 : Yêu cầu HS đọc kĩ đề bài, xác định được tổng và hiệu của 2 số sau đó tìm số bé, số lớn.

+ Bước 2: HS trao đổi theo nhóm đôi để tự tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng như sau:

Tóm tắt : Số lớn :

10 70

Số bé :

Bước 3 : Trình bày bài giải :

Tìm số bé :

(70 – 10) : 2 = 30

Tìm số lớn :

70 – 30 = 40 (hoặc 30 + 10 = 40)

Đáp số : Số bé : 30

Số lớn : 40

(Tìm tổng của hai số : 30 + 40 = 70 ; Hiệu của hai số : 40 – 30 = 10)

Ví dụ 2 : ( Bài toán về Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ số của hai số đó.)

Hiệu của 2 số là 85. Tỉ số của 2 số đó là 3/8. Tìm 2 số đó?

Với bài toán trên tôi hướng dẫn HS giải theo các bước sau:

+ Bước 1: Yêu cầu HS đọc kĩ đề bài, xác định được tổng và tỉ số của 2 số. Tự dự kiến cách tóm tắt bài toán theo dữ liệu của đề bài.

+ Bước 2: HS trao đổi theo nhóm đôi để tự tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng như sau :

Số bé :

85

Số lớn :

+ Bước 3 : Dựa vào sơ đồ để phân tích bài toán, tìm phương án giải.

GV hướng dẫn HS phân tích bài toán theo các câu hỏi sau:

– Nhìn vào sơ đồ em thấy : Giá trị của số bé gồm mấy phần ? Giá trị của số lớn gồm mấy phần như thế ?

– Hiệu của 2 số là bao nhiêu ?

– Muốn tìm giá trị một phần em làm thế nào ?

– Khi tìm được giá trị 1 phần, ta cần tìm những gì tiếp theo?

+ Bước 4 : Giải bài toán và thử lại kết quả.

Hiệu số phần bằng nhau là : 8 – 3 = 5 ( Phần )

Giá trị một phần là : 85 : 5 = 17

Số bé là : 17 x 3 = 51

Số lớn là : 51 + 85 = 136

Đáp số : Số bé: 51

Số lớn: 136

Thử lại : Tính hiệu của 2 số : 136 – 51 = 85 (Đúng theo dữ liệu đầu bài )

4. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS:

GV làm tốt công tác kiểm tra đánh giá thường xuyên và định kỳ về kết quả học tập của HS để nắm bắt kịp thời việc vận dụng, rèn kỹ năng giải toán có lời văn của HS cả lớp, từ đó phân loại HS theo các trình độ để tự điều chỉnh về mục tiêu đối với từng bài dạy cụ thể cho phù hợp với các nhóm đối tượng HS của lớp. Bên cạnh công tác kiểm tra, đánh giá HS, còn giúp cho GV tự điều chỉnh về hình thức tổ chức dạy học, điều chỉnh về phương pháp dạy học sao cho kết quả các tiết dạy đạt được mục tiêu đã đề ra. GV luôn quan tâm, giúp đỡ những em HS có kết quả học tập môn toán nói chung và giải toán có lời văn đạt kết quả chưa cao để các em có hướng vươn lên.

5. Tự tin và quyết tâm thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học:

Để phát huy tính tích cực, chủ động, say mê học tập môn Toán nói chung và giải bài toán có lời văn nói riêng cho các em học sinh, giáo viên phải tự tin và quyết tâm trong việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học. Phải kết hợp nhuần nhuyễn và linh hoạt các phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại như : Phương pháp thuyết trình, giảng giải và minh họa, gợi mở vấn đáp, trực quan, thực hành luyện tập. Tăng cường tổ chức các hoạt động học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác.

6. Tổ chức các trò chơi toán học :

Tổ chức cho HS tham gia các trò chơi học tập kết hợp trong các tiết dạy. GV phải xác định rõ kiến thức và kĩ năng của trò chơi. Chuẩn bị chu đáo, hướng dẫn rõ ràng cách chơi, luật chơi, thực hiện đúng lúc với các trò chơi hợp lý, cân đối với các hoạt động của tiết dạy. Tổ chức các trò chơi trong toán học như : Tiếp sức, ai đúng ai nhanh,…

Thông qua việc tổ chức thành công các trò chơi, GV đã tạo không khí thoải mái, nhẹ nhàng, kích thích các hoạt động học tập của HS. Củng cố chắc chắn các kiến thức, kĩ năng cần đạt trong tiết dạy cho HS.

Nam Phước, ngày 5 tháng 12 năm 2012

Người viết

Dương Quang Bình

Dương Quang Bình @ 14:58 06/12/2012 Số lượt xem: 622