Ký Ức Ngày Giải Phóng Miền Nam Của Người Lính Xe Tăng

Đã 44 năm trôi qua, nhưng ký ức về buổi sáng 30/4/1975 lịch sử, về trận đấu ác liệt giữa ta và địch trong Chiến dịch mang tên Bác vẫn không phai mờ trong tâm trí ông Nguyễn Trần Đoàn – người lính xe tăng Trung đoàn 273, hiện đang sinh sống tại thành phố Hải Phòng.

Với ông, niềm vinh dự nhất là có mặt trong đoàn quân tiến vào giải phóng Sài Gòn, được đóng góp một phần công sức bé nhỏ của mình vào chiến thắng của dân tộc.

Ông Nguyễn Trần Đoàn cùng những cựu chiến binh Hải Phòng ôn lại ký ức về ngày giải phóng.

Sau giải phóng Buôn Ma Thuột (tháng 3/1975), Trung đoàn xe tăng 273 được lệnh hành quân tiến về Sài Gòn. Sáng 27/4, khi đang cùng đồng đội ém quân tại khu rừng thưa ven sông Sài Gòn, ông Nguyễn Trần Đoàn – khi đó là trưởng xe tăng R153 (đại đội 11, tiểu đoàn 1, Trung đoàn 273) được chính trị viên đại đội thông báo: “Chúng ta đã mở chiến dịch Hồ Chí Minh – chiến dịch mang tên Bác. Các đồng chí vừa đánh, vừa giữ để giải phóng, tiếp quản Sài Gòn”. Ông Nguyễn Trần Đoàn cùng đồng đội vô cùng phấn khởi, hừng hực khí thế xung trận.

“ Sáng 29/4/1975, chúng tôi bắt đầu xuất quân, xếp thành hàng đi, tôi được biên chế đi thứ 7 trong cánh quân Tây Bắc. Chạy đến đường 1, tôi nhìn thấy 23 cái M113, tức là xe bọc thép của ngụy. Đặc công phát hiện được, bắn trả. Đoàn hành quân của chúng tôi tập kết ở phía sau, đánh trận đầu tiên, đánh gọn 23 cái M113 của Ngụy” – ông Đoàn kể lại.

Sau chiến thắng tại cầu Bông, sáng 30/4/1975, đoàn xe tăng của ông Nguyễn Trần Đoàn và các đơn vị bộ binh làm nhiệm vụ đột phá, dũng mãnh tiến thẳng về hướng Ngã tư Bảy Hiền.

Trên đường đi, cứ cách khoảng 100 mét, địch lại đắp một lũy bằng đất, rào bùng nhùng bằng dây thép gai từ bên trái qua 2/3 bên phải đường; rồi lại từ phải qua trái. Đầu các ngõ hẻm, xe tăng M41, M48 của địch đã phục sẵn nhả đạn vào xe tăng và đội hình tiến quân của ta. Các pháo thủ của ta dùng súng 12 ly 7 bắn vào mặt lũy, đồng thời, từ xa đã bắn áp đảo vào các cửa sổ nhà cao tầng 2 bên phố, phòng địch phục kích.

Đến ngã tư Bảy Hiền, xe tăng của ông Nguyễn Trần Đoàn bị pháo kích. Sau ánh chớp và tiếng nổ đinh tai, ông Đoàn thấy chiến sĩ bộ binh phía cửa xe bị thương. Ông đưa tay kéo đồng đội lại thì một quả đạn tiếp theo nổ, cánh tay trái của ông đứt lìa.

Bình tĩnh ngồi xuống, kéo cánh tay “lủng lẳng” vướng ngoài cửa xe vào lòng, ông Đoàn garô vết thương, nén cơn đau, tiếp tục chỉ huy xe chiến đấu. Do chỉ còn một tay nên hướng súng không được chuẩn, ông mới gọi điện báo bị thương.

Ông Nguyễn Trần Đoàn được khênh xuống xe, nằm lại trên đường và ngất lịm đi, trong khi đồng đội và xe tăng của ông tiến thẳng hướng Tân Sơn Nhất.

Ông Nguyễn Trần Đoàn say sưa kể về những kỷ niệm, những ký ức ngày giải phóng 44 năm về trước.

Tỉnh dậy với cánh tay trái đã được cắt và băng bó cẩn thận, cũng là lúc ông Nguyễn Trần Đoàn nghe thông tin chiến thắng.

“Khoảng 3, 4h chiều, tôi tỉnh dậy, hỏi cô y tá: “Mình đánh đến đâu rồi?”. Cô trả lời “Giải phóng hoàn toàn rồi”, lúc ấy tôi òa lên khóc. Tất cả nhân viên y tế và anh em thương binh hân hoan, hấn khởi lắm. Sau trận này sẽ không ai bị thương nữa, không ai hy sinh nữa. Mình sẽ là những thương binh cuối cùng. Đấy là hạnh phúc nhất” – ông Nguyễn Trần Đoàn kể lại.

Trưởng xe tăng Nguyễn Trần Đoàn giờ là chủ Doanh nghiệp Vận tải 273, một doanh nghiệp kinh doanh thành công tại thành phố Hải Phòng và có nhiều hoạt động xã hội ý nghĩa, như: tặng quà, giúp đỡ các gia đình chính sách, xây nhà tình nghĩa tặng các cựu chiến binh có hoàn cảnh khó khăn, tặng học bổng cho con em cựu chiến binh…

Sự anh dũng, quả cảm trong chiến đấu, nghị lực mạnh mẽ và lòng nhân ái của ông Nguyễn Trần Đoàn luôn khiến mọi người nể phục.

Ông Nguyễn Hữu Nhị – trưởng xe tăng R154, Trung đoàn 273 năm xưa, hiện sống tại phường Đông Nguyên, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nhận xét, ông Đoàn có tình đồng đội rất cao, chiến đấu rất quả cảm, khi bị thương, vẫn chiến đấu hết mình.

“Sau đó ông Đoàn học đại học rồi lập công ty, lấy tên lữ đoàn đặt cho công ty. Điều đấy chứng tỏ ông luôn tâm niệm và hướng về đơn vị, lấy thành tích đơn vị 2 lần anh hùng trong chiến đấu để noi theo, đồng thời hết sức mình để thực hiện lời dạy của Bác “thương binh tàn nhưng không phế” – ông Nguyễn Hữu Nhị cho biết./.

Bất Ngờ Về Chiếc Xe Tăng Đầu Tiên Của Quân Giải Phóng Miền Nam: Liên Xô Hay Trung Quốc?

Thực hiện chủ trương chiến lược của Bộ Tổng tham mưu: “xe chưa xung trận thì người xung trận trước”, trong 2 năm 1964- 1965 gần 300 cán bộ chiến sĩ của Trung đoàn xe tăng 202 đã hành quân bộ vượt hàng nghìn ki- lô- mét vào chiến trường B2 với nhiệm vụ “chuẩn bị chiến trường cho xe tăng” và “lấy xe địch đánh địch”.

Sau khi vào chiến trường, các đoàn đã được gom lại và thành lập “Đoàn cơ giới Miền” với mật danh là J16, trong đó có Đại đội đặc công 40.

Trận đánh đầu tiên mà J16 được tham gia là chiến dịch Đồng Xoài (tháng 5.1965) với nhiệm vụ thu xe chiến lợi phẩm của địch. Tuy nhiên, trong chiến dịch này ta không thu được xe nào cả. Tiếp đó là một số trận đánh nữa nhưng kết quả vẫn như vậy.

Và rồi thời cơ đã đến. Thông qua các cơ quan địch vận của Miền, lãnh đạo Ban Cơ giới Miền và chỉ huy J16 biết trong đội ngũ Thiết đoàn 1 Kỵ binh Quân lực Việt Nam cộng hòa (VNCH) đang đóng tại căn cứ Gò Đậu (Phú Cường, Bình Dương) có một đảng viên do ta cài vào để tuyên truyền, lôi kéo binh sĩ địch là thiếu úy Phùng Văn Mười.

Cho đến thời điểm đó đồng chí Mười đã tuyên truyền giác ngộ được một số anh em nghĩa binh yêu nước sẵn sàng làm binh biến và trở về với cách mạng. Lãnh đạo Ban Cơ giới Miền và chỉ huy Đoàn J16 lập tức đề nghị lên trên cho tiến công căn cứ Thiết đoàn 1 này.

Kế hoạch tập kích Thiết đoàn 1 được hoạch định như sau: Trước giờ nổ súng, Đại đội 40 của J16 cùng bộ binh sẽ bí mật áp sát căn cứ. Trong lúc đó, các nghĩa binh cũng sẽ đột nhập khu để xe và chiếm một số xe địch.

Đến giờ hiệp đồng, hai bên sẽ phối hợp “trong đánh ra, ngoài đánh vào”. Trong khi bộ binh đánh vào căn cứ thì Đại đội 40 nhanh chóng đánh chiếm khu xe và cướp xe địch. Sau khi chiếm được xe sẽ tổ chức thành 3 hướng:

Hướng 1: chạy về phía Sài Gòn để tạo dư luận đảo chính, gây hoang mang cho địch và buộc chúng phải phân tán lực lượng đối phó; đến cầu Bình Phước thì hủy xe còn người trở về căn cứ.

Hướng 2: cùng với bộ binh đánh chiếm chi khu quân sự và dinh tỉnh trưởng Bình Dương để khuyếch trương kết quả trận đánh.

Cơ động về chiến khu qua ngả Bông Trang- Nhà Đỏ.

Đầu tháng 3 năm 1966, mọi công tác chuẩn bị cũng như liên lạc hiệp đồng với nhân mối đã hoàn thành. Tất cả đã sẵn sàng.

Đến chiếc xe tăng đầu tiên

Theo đúng kế hoạch, 19 giờ ngày 23.3.1966, khi đại bộ phận quân địch đang tập trung ăn nhậu, giải trí tại câu lạc bộ thì Đại đội 40 và các lực lượng khác của ta áp sát hàng rào căn cứ, các nghĩa binh thì bí mật chiếm được 3 xe.

Đến 20 giờ 15 phút, trận đánh bắt đầu. Khi pháo ta bắn vào căn cứ thì các nghĩa binh cũng dùng pháo súng trên xe bắn vào khu vực câu lạc bộ, nơi quân địch tập trung đông nhất.

Nhờ hiệp đồng chặt chẽ “nội công, ngoại kích” nên chỉ sau gần 1 giờ chiến đấu, quân ta đã làm chủ tình thế, tiêu diệt gần 200 tên địch, thu được 4 xe tăng M41 và 6 xe thiết giáp M113. Số xe này được chia thành 3 hướng theo đúng kế hoạch đã đề ra.

Tuy nhiên, do sử dụng xe chưa thật thành thạo, lại bị địch phản kích và dùng không quân đánh chặn quyết liệt nên chỉ có 1 chiếc M41 duy nhất do thiếu úy Phùng Văn Mười lái là vượt được vòng vây, dũng mãnh đánh qua căn cứ Trung đoàn BB9 của địch.

Sau đó, xe tăng được đồng chí Vũ Đức Hùng là cán bộ kỹ thuật của ta đón tại Bông Trang- Nhà Đỏ và chạy thẳng về chiến khu Long Nghĩa (nay thuộc xã Long Nguyên, huyện Bến Cát). Và thế là chiếc xe tăng M41 số hiệu 247 do Mỹ chế tạo đã trở thành chiếc xe tăng đầu tiên của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.

Là một đơn vị có vai trò trọng yếu tại Quân khu 3 và Biệt khu Thủ Đô, Thiết đoàn 1 Kỵ binh là đơn vị được trang bị hiện đại nhất, quân số đày đủ nhất trong lực lượng thiết kỵ VNCH lúc đó, có nhiệm vụ sẵn sàng cơ động bảo vệ thủ đô và dinh tổng thống. Vì vậy, trận đánh này có một tiếng vang rất lớn và làm rối loạn hàng ngũ địch.

Sau khi bị mất xe địch đã tổ chức truy lùng ráo riết. Để bảo vệ chiếc xe quý giá đã phải đổi bằng máu, bộ đội J16 đã đào hầm sâu, ngụy trang rất kỹ… để cất giấu nên mặc dù địch càn quét, truy tìm bằng nhiều cách khác nhau vẫn không phát hiện ra được.

Tại chiến khu Long Nghĩa, chiếc M41 này trở thành một “giáo cụ trực quan” hết sức quý giá để huấn luyện cho cán bộ, chiến sĩ TTG về cấu tạo xe máy, vũ khí, cách sử dụng xe và các trang thiết bị trên xe, cách phá hủy xe với các phương tiện khác nhau…

Đồng thời chiếc xe này cũng phục vụ huấn luyện các đơn vị bộ binh nắm được những điểm hiểm yếu trên xe, từng bước loại trừ tâm lý sợ TTG địch rất phổ biến lúc bấy giờ. Ngoài ra nó còn được dùng để huấn luyện cho bộ binh cách lên xuống xe khi hiệp đồng chiến đấu với xe tăng.

Tháng 9 năm 1968, khi quân địch nống ra càn quét sâu vào căn cứ của Miền, không thể đưa xe đi được quân ta buộc phải tháo dỡ vũ khí, trang thiết bị thông tin, khí tài quang học… đem về cứ mới và tổ chức chôn giấu xe xuống lòng đất. Sau này, khi địch rút ta lại đào xe lên và vẫn sử dụng tốt như thường.

Quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam

Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thăm Quân Giải phóng miền Nam tại miền Đông Nam Bộ. (Ảnh tư liệu – theo Báo QĐND)

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để lại cho chúng ta nhiều bài học quý giá; trong đó có bài học về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, mà việc thành lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam cách đây 50 năm là một sáng tạo điển hình của nghệ thuật tổ chức chỉ đạo chiến tranh nhân dân Việt Nam của Đảng ta.

Thực hiện kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ hai (1961-1965) của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) là đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang ở hai miền Nam – Bắc; trong đó, tập trung xây dựng lực lượng vũ trang miền Nam đủ mạnh, để từng bước đánh bại từng chiến lược, đánh đổ từng bộ phận, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, ngày 15-2-1961, tại chiến khu Đ (miền Đông Nam Bộ), Quân giải phóng miền Nam (QGPMN) Việt Nam được thành lập, đánh dấu bước phát triển mới về tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân. QGPMN đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất về mọi mặt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và sự chỉ huy thống nhất của Bộ Quốc phòng – Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, trực tiếp là Trung ương Cục miền Nam và Ban Quân sự thuộc Trung ương Cục. QGPMN có nhiệm vụ chủ yếu là làm nòng cốt cho toàn dân tiến hành đấu tranh vũ trang, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, góp phần thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Ngay sau khi ra đời, QGPMN bám sát phương châm phát triển lực lượng, cùng toàn dân đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ (1961-1965). Thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng, QGPMN tập trung xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích; trong đó, chú trọng phát triển bộ đội chủ lực cả về biên chế, tổ chức và vũ khí, trang bị. Chỉ sau một năm thành lập (1962), QGPMN đã xây dựng được 2 trung đoàn bộ binh ở miền Đông Nam Bộ và 3 trung đoàn bộ binh ở Quân khu 5. Đó là những đơn vị bộ đội chủ lực đầu tiên đặt nền móng cho QGPMN không ngừng phát triển lớn mạnh. Các đơn vị đã thực hiện tốt việc kết hợp vừa xây dựng, vừa đẩy mạnh hoạt động tác chiến với nhiều trận đánh quy mô vừa và nhỏ, tiêu biểu là trận đánh Ấp Bắc (Mỹ Tho) tháng 1-1963, giành thắng lợi, mở ra phong trào “Thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công” trên toàn chiến trường miền Nam. Từ đánh tập trung quy mô đại đội, tiểu đoàn, phát triển lên quy mô trung đoàn; trong chiến dịch Bình Giã (từ ngày 2-12-1964 đến ngày 3-1-1965), lần đầu tiên ta sử dụng 2 trung đoàn bộ binh tiến công, đánh bại các biện pháp chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của địch. Tiếp đó, QGPMN mở chiến dịch Đồng Xoài (từ ngày 10-5 đến ngày 22-7-1965) và chiến dịch Ba Gia (từ ngày 28-5 đến ngày 20-7-1965) giành thắng lợi, đánh dấu bước phát triển mới về tổ chức, chỉ huy và trình độ tác chiến tập trung, làm thất bại các biện pháp chiến lược của địch, góp phần cùng toàn dân đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.

QGPMN tiếp tục phát triển lực lượng, đẩy mạnh hoạt động tác chiến, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ (1965-1968). Để cứu vãn tình thế thất bại trên chiến trường, đế quốc Mỹ vội vàng đưa quân vào miền Nam Việt Nam. Lực lượng này được trang bị hiện đại, có hoả lực mạnh, sức cơ động cao và là đối tượng tác chiến của QGPMN. Để giành thắng lợi trước đối tượng mới, QGPMN đã tích cực nghiên cứu nắm địch, đồng thời chủ động phát triển nhanh lực lượng từ quy mô 5 trung đoàn lên 6 sư đoàn, bố trí thành ba khối chủ lực cơ động, triển khai hợp lý trên các chiến trường. Quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, QGPMN đã đẩy mạnh tác chiến tập trung của các đơn vị bộ đội chủ lực, kết hợp với tác chiến rộng khắp quy mô vừa và nhỏ của lực lượng dân quân du kích, để thắng ngay trận đầu, giành thắng lợi từng bước tiến tới làm thất bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Những chiến thắng liên tiếp: Vạn Tường (ngày 18-8-1965), đánh bại cuộc hành quân “tìm diệt” quy mô lớn của đế quốc Mỹ, Chiến dịch Plây Me (từ ngày 19-10 đến ngày 26-11-1965) tiêu diệt gần hết và đánh thiệt hại 2 tiểu đoàn kỵ binh và diệt 1 chiến đoàn cơ giới của Mỹ, 1 tiểu đoàn bộ binh nguỵ, phá 89 xe quân sự, bắn rơi 59 máy bay. Điều đó chứng minh rằng, QGPMN đủ sức đánh thắng quân đội viễn chinh Mỹ và đồng minh, dù chúng được trang bị vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại. Thắng lợi kế tiếp của Chiến dịch Bàu Bàng-Dầu Tiếng mở ra phong trào “Tìm Mỹ mà diệt”, “Nắm thắt lưng Mỹ mà đánh”. Phát triển thế tiến công, QGPMN đánh bại liên tiếp hai cuộc phản công chiến lược (mùa khô 1965-1966, 1966-1967) và đánh bại cuộc hành quân Gian-xơn-xi-ty (từ ngày 22-2 đến ngày 15-4-1967), bẻ gẫy hai gọng kìm “tìm diệt” và “bình định” của 45.000 quân Mỹ… Trước tình thế có lợi cho cách mạng, Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng quyết tâm đẩy mạnh tiến công giành thắng lợi quan trọng về mặt quân sự. Theo đó, QGPMN thực hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) ở nhiều thành phố, thị xã, thị trấn miền Nam, trọng tâm là Huế, Sài Gòn-Gia Định, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, hỗ trợ nhân dân nổi dậy, giải phóng 1,4 triệu dân; giáng một đòn quyết định làm thất bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, “phi Mỹ hóa” cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Pa-ri. Có thể nói, đây là thời kỳ phát triển cách đánh phong phú, đa dạng và sáng tạo của QGPMN.

QGPMN thực hiện tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, cùng toàn dân đánh bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của đế quốc Mỹ (1969-1975). Các chiến lược, chiến thuật của Mỹ bị khủng hoảng nghiêm trọng, buộc chúng phải thay đổi phương thức tác chiến “tìm diệt” sang “quét và giữ”, tạo ra những vùng trắng ở ven đô thị, nhất là Sài Gòn, nhằm bảo vệ an toàn trung tâm đầu não; đồng thời, thực hiện Chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, đánh phá miền Bắc, xâm lược Lào, Cam-pu-chia, với ý đồ kết thúc chiến tranh có lợi cho Mỹ. Trong khi đó, QGPMN gặp nhiều khó khăn: lực lượng bị tổn thất chưa kịp khôi phục, không tiếp tế được vật chất hậu cần do bị đánh phá liên tục… Để duy trì lực lượng tiếp tục chiến đấu, QGPMN tổ chức thành nhiều bộ phận đứng chân ở các vùng, miền khác nhau (vùng lõm căn cứ đồng bằng, vùng giáp ranh hoặc căn cứ miền núi).

Trong bối cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thư kêu gọi quân và dân cả nước quyết tâm chiến đấu “Vì độc lập, vì tự do, đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào”. Tiếp đó, tháng 4-1969, Bộ Chính trị ra Nghị quyết “Về tình hình và nhiệm vụ mới”, nhằm động viên quân và dân hai miền Nam – Bắc, phát triển thế tiến công, tiến lên giành thắng lợi quyết định. Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh quyết định gấp rút xây dựng các lực lượng vũ trang lên một bước mới; trong đó, tập trung xây dựng các đơn vị chủ lực QGPMN. Bộ Tổng tư lệnh điều động nhiều đơn vị với đủ quân số và vũ khí, trang bị từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam và điều chỉnh các đơn vị chủ lực đứng chân ở từng địa bàn chiến lược, nhất là trên hướng trọng điểm. QGPMN được tiếp thêm sức mạnh, tiếp tục phát triển, nâng cao sức mạnh chiến đấu, giữ vững thế có lợi trên các chiến trường; đồng thời, tích cực phối hợp tác chiến với quân và dân hai nước Lào, Cam-pu-chia, liên tiếp giành thắng lợi, làm thay đổi cục diện chiến tranh ở ba nước Đông Dương. Đối với chiến trường miền Nam, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương phát triển thế tiến công chiến lược, nhằm thay đổi cục diện chiến tranh có lợi cho ta. Thực hiện kế hoạch tác chiến năm 1972 của Quân uỷ Trung ương, QGPMN mở Cuộc tiến công chiến lược năm 1972, điển hình là các chiến dịch: Trị – Thiên (từ ngày 30-3 đến ngày 27-6), Bắc Tây Nguyên (từ ngày 30-3 đến ngày 5-6), Nguyễn Huệ (từ ngày 31-3-1972 đến ngày 28-1-1973)… Thắng lợi của Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 đã buộc chính quyền Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri (tháng 1-1973), cam kết tôn trọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút hết quân Mỹ và đồng minh ra khỏi miền Nam Việt Nam. Tranh thủ thời cơ, tháng 10-1973, Bộ Chính trị quyết định phát triển lực lượng chủ lực từ quy mô sư đoàn lên quy mô quân đoàn 1, có nhiều vũ khí, trang bị hiện đại, bảo đảm chiến đấu liên tục, dài ngày. Đây là sự phát triển vượt bậc về quy mô tổ chức, vũ khí trang bị và trình độ tác chiến, chuẩn bị cho QGPMN mở các chiến dịch tiến công, hiệp đồng binh chủng tiêu diệt lớn quân địch trên toàn chiến trường miền Nam, nhằm sớm kết thúc chiến tranh. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình chiến trường miền Nam, trong nước, thế giới, nhất là khả năng quay trở lại của quân Mỹ, Bộ Chính trị đã hạ Quyết tâm chiến lược: mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy quy mô lớn vào mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Thực hiện quyết tâm đó, QGPMN cùng với quân và dân cả nước tích cực tạo lực, tạo thế, chủ động mở Chiến dịch Tây Nguyên, chọc thủng tuyến phòng thủ chiến lược của địch, tạo đà cho QGPMN liên tiếp mở các chiến dịch: Trị – Thiên, Huế – Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ ngày 26 đến 30-4-1975) giành thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh là một minh chứng cho sự lớn mạnh của QGPMN về trình độ tổ chức, chỉ huy, hiệp đồng tác chiến với các quân chủng, binh chủng, kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng, thực hiện trận quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh.

Trải qua 14 năm (1961-1975) xây dựng và chiến đấu, QGPMN – bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam – đã làm tròn nhiệm vụ chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trực tiếp là Trung ương Cục miền Nam, Quân uỷ và Bộ Tư lệnh Miền, QGPMN đã phát huy truyền thống, bản chất cách mạng cao đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam, vừa xây dựng, vừa chiến đấu, hoàn thành vẻ vang sứ mệnh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Ngày nay, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới rất nặng nề, đã và đang đặt ra yêu cầu cấp thiết đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”; trước tiên, xây dựng lực lượng Hải quân, Phòng không-Không quân, Thông tin liên lạc, Tác chiến điện tử và Trinh sát kỹ thuật hiện đại. Đồng thời, xây dựng Quân đội nhân dân có số lượng hợp lý, chất lượng tổng hợp cao; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, làm nòng cốt trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân; sẵn sàng chuyển hóa thành thế trận chiến tranh nhân dân phát triển ở trình độ cao khi đất nước có chiến tranh. Cùng với đó, phải tập trung đầu tư nghiên cứu phát triển khoa học quân sự, lý luận nghệ thuật tác chiến của các quân chủng, binh chủng và các lực lượng, đáp ứng yêu cầu của chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao; đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, tăng cường cơ sở vật chất-kỹ thuật, bảo đảm cho các lực lượng của quân đội từng bước hiện đại. Trước mắt, tập trung đổi mới công tác huấn luyện-đào tạo, nâng cao chất lượng xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, để thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, không để bị động bất ngờ trong mọi tình huống, theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã xác định.

và Thượng tá, ThS. ĐỖ HẢI ÂU

1- Quân đoàn 1 ở hậu phương miền Bắc, thành lập 10-1973; Quân đoàn 2 ở Trị-Thiên, thành lập tháng 5-1974; Quân đoàn 3 ở Tây Nguyên, thành lập tháng 3-1975; Quân đoàn 4 ở Đông Nam Bộ, thành lập tháng 7-1974.

Giải Phóng Miền Nam (Bài Hát)

Giải phóng miền Nam được sáng tác vào năm 1961 bởi nhạc sĩ Lưu Hữu Phước (có bút hiệu khác là Huỳnh Minh Siêng), là bài hát chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (1961 – 1976), và đồng thời là quốc ca của nước Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (1969 – 1976).

Ngày 20 tháng 12 năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời và theo trên thực tế – tổ chức cần phải có một bài ca chính thức. Đến ngày 20 tháng 7 năm 1961, Hội Văn nghệ Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập do Trần Hữu Trang làm chủ tịch. Hội đã giao cho ba nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng sáng tác tập thể một bài hát làm bài ca chính thức của Mặt trận. Mai Văn Bộ và Huỳnh Văn Tiểng đã phác thảo xong ca từ của bài hát trong vòng một tuần, còn Lưu Hữu Phước được phân công viết phần nhạc. Thế là giữa miền Nam bão lửa, được sự phân công của cách mạng, bộ ba Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng và Mai Văn Bộ đã bắt tay xúm lại và chỉ một tuần sau, ca khúc Giải phóng miền Nam ra đời.

Khi nghe cả ba nhạc sĩ hát bài Giải phóng miền Nam lần đầu để duyệt, ông Phạm Hùng, khi đó là cán bộ cấp cao của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã đứng lên nói to: “Được rồi, hay lắm! Vùng lên nhân dân miền Nam anh hùng! Vùng lên! Xông pha vượt qua bão bùng! Vận nước đã đến rồi… Hay hết sức! Hoan nghênh và cảm ơn các đồng chí”.

Sau đó bài Giải phóng miền Nam được mang tên chung của 3 người là Huỳnh Minh Siêng. Theo lời kể của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước thì ban đầu để tên ghép là Huỳnh Minh Liêng (từ chữ cái đầu trong họ của 3 ông). Chữ Liêng được cố tình viết sai chính tả là L-i-ê-n-g (các từ liền với nhau bằng gạch nối) để mang tính dân gian và tránh trùng tên của nhân sĩ Đặng Thúc Liêng. Nhưng khi đưa lên báo Nhân dân thì do tam sao thất bản (chữ L viết tay hoa bị nhầm thành S), nên đã in thành Siêng. Thực chất, để bí mật, nhóm bộ ba này đã đặt tên tác giả là: “Huỳnh Minh Liêng”; nhưng do sắp chữ khi in, người sắp chữ đã nhầm chữ L thành chữ S, và về sau thì nhóm bộ ba này, chủ yếu là Lưu Hữu Phước, cũng không muốn sửa nữa vì từ Siêng cũng có cái hay của nó là siêng năng. Huỳnh Minh Siêng – tác giả bài hát Giải phóng miền Nam được đặt tên tác giả là vậy.

Từ đây, bài hát nhanh chóng được phổ biến rộng rãi qua sóng phát thanh của Đài Phát thanh Giải phóng miền Nam và các đoàn văn công quân Giải phóng.

Nhận xét, phân tích

Tác phẩm thuộc thể loại chính ca có tầm tư tưởng lớn và giá trị nghệ thuật cao, lời ca và nhạc như tiếng gọi quyết liệt và như lời hiệu triệu.

Nhịp điệu 4/4; Cung Mi thứ sục sôi quyết liệt, nhịp đi – hùng tráng.

Nội dung: Tính thôi thúc, cổ vũ, hiệu triệu luôn nổi rõ trong tác phẩm. Bắt đầu bằng lời hiệu triệu “Giải phóng miền Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước”. Lưu Hữu Phước chỉ dùng một cách triển khai giai điệu, song mạnh mẽ, hiệu quả, với ca từ đầy hào phóng về truyền thống của Việt Nam – “Đây Cửu Long hùng tráng. Đây Trường Sơn vinh quang… vai sát vai chung một bóng cờ”. Với cao trào – “Vùng lên nhân dân Việt Nam anh hùng, vùng lên xông pha vượt qua bão bùng…”; Và kết thúc bằng lời huyết thệ “Vận nước đã đến rồi, bình minh chiếu khắp nơi, dựng xây non nước sáng tươi muôn đời”.

Cách thể hiện:

Hát tập thể

Hát theo nhóm

Hát hợp xướng – đồng ca

Hát đồng ca

Hát đối đáp – đồng ca

Giải Phóng Hoàn Toàn Miền Nam

Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết, Mỹ buộc phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Song, chúng không từ bỏ âm mưu xâm lược Việt Nam, tiếp tục viện trợ, tạo điều kiện cho chính quyền Sài Gòn phá hoại Hiệp định Pari. Mỹ ra sức xây dựng quân đội ngụy Sài Gòn thành một đội quân tay sai “mạnh nhất ở Đông – Nam á”, với số quân trên 1 triệu 10 vạn tên, được tổ chức thành 4 quân đoàn gồm 13 sư đoàn và nhiều lữ đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, với 1.850 máy bay các loại, 1.588 khẩu pháo, 2.074 xe tăng, 1.611 tàu chiến; với hàng triệu tấn vật tư chiến tranh được đưa vào miền Nam trước và sau khi ký Hiệp định Pari. Ngoài ra còn có lực lượng bảo an, dân vệ được trang bị đầy đủ. Chúng liên tiếp đưa ra nhiều kế hoạch chiến tranh với mục tiêu trong 3 năm (từ 1973-1975), chiếm hết tất cả các vùng giải phóng và đặt toàn bộ miền Nam dưới quyền kiểm soát của chúng. Sau Hiệp định Pari, ở miền Nam Việt Nam đã hình thành hai vùng kiểm soát, hai quân đội, hai chính quyền. Lực lượng vũ trang cách mạng đang đứng vững trên các địa bàn chiến lược quan trọng. Uy tín của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế. Hội nghị cấp cao của gần 80 nước Không liên kết họp tại Angiê, tháng 9-1973 đã công nhận Cộng hoà miền Nam Việt Nam là thành viên chính thức của Phong trào Không liên kết, công nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời là người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam. Sau thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên là thắng lợi của chiến dịch Huế-Đà Nẵng (từ 19 đến 29-3-1975). Từ lúc chiến dịch Tây Nguyên mở đầu, quân và dân Trị-Thiên đã phối hợp hoạt động mạnh, tiến công và nổi dậy ở nhiều nơi. Ngày 19-3-1975 toàn bộ tỉnh Quảng Trị được giải phóng. Tiếp đó, quân và dân Thừa Thiên-Huế đã hình thành thế bao vây Huế bằng nhiều mũi và khống chế chặn đường rút chạy ra biển và vào Đà Nẵng. Ngày 24-3, Tam Kỳ và Quảng Ngãi được giải phóng. Ngày 26-3-1975, các lực lượng vũ trang nhân dân đã tiến hành hợp vây và cùng với đông đảo lực lượng quần chúng cách mạng nổi dậy tiêu diệt tập đoàn phòng ngự Thừa Thiên-Huế gồm 4 vạn tên địch, làm chủ thành phố Huế và toàn bộ tỉnh Thừa Thiên. Từ đầu tháng 4-1975, các binh đoàn chủ lực trên đường hành quân tiến về Sài Gòn đã đánh địch, giải phóng Phan Rang, Bình Thuận, Bình Tuy, Xuân Lộc, đánh chiếm Bà Rịa. Ngày 26-4-1975, cuộc tiến công lớn vào Sài Gòn bắt đầu. Những trận chiến đấu quyết liệt và những trận bão lửa dữ dội diễn ra trước hết ở hướng đông là hướng địch tập trung nhiều lực lượng và tổ chức chống cự rất điên cuồng. Từ khắp các hướng, năm cánh quân lớn phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương và được sự giúp sức của quần chúng nổi dậy, nhất loạt tấn công địch với sức mạnh vũ bão. Từ ngày 26 đến ngày 28-4, một bộ phận quan trọng lực lượng địch trên tuyến phòng thủ vòng ngoài bị tiêu diệt. Các binh đoàn chủ lực của quân giải phóng xiết chặt vòng vây xung quanh Sài Gòn. Hoảng sợ trước nguy cơ sắp bị tiêu diệt hoàn toàn, từ ngày 18-4-1975, Tổng thống Mỹ chúng tôi ra lệnh di tản gấp người Mỹ ở Sài Gòn bằng một lực lượng không quân và hải quân Mỹ. Ngụy quyền tay sai, sau khi Trần Văn Hương lên thay Thiệu (21-4) rồi Dương Văn Minh lên thay Hương (28-4) đã thực sự lâm vào cảnh tuyệt vọng. Ngày 30-4, với sự hiệp đồng chiến đấu rất anh dũng của các lực lượng đặc biệt tinh nhuệ, các lực lượng biệt động, tự vệ vùng ven và nội đô, cùng với sự nổi dậy đều khắp và rất kịp thời của quần chúng trong và ngoài thành phố, các cánh quân hùng mạnh đã thần tốc thọc sâu, tiến thẳng vào chiếm các mục tiêu quan trọng trong thành phố Sài Gòn-Gia Định: Dinh Độc lập (tức Phủ Tổng thống ngụy), Bộ Tổng tham mưu và Khu Bộ tư lệnh các binh chủng của địch, sân bay Tân Sơn Nhất, Đài phát thanh, Biệt khu thủ đô và Tổng nha cảnh sát. Nhân dân thành phố Sài Gòn hân hoan chào đón các lực lượng vũ trang, con em của mình và cùng bộ đội truy lùng địch, tước vũ khí của chúng, dẫn đường cho bộ đội, bảo vệ các cơ sở kinh tế và văn hoá. Tổng thống ngụy quyền Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Đúng 11 giờ 30 ngày 30-4-1975, lá cờ Cách mạng được cắm trên nóc Dinh Độc lập. Đây là thời điểm đánh dấu thành phố Sài Gòn-Gia Định hoàn toàn giải phóng. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Trên đà chiến thắng, từ ngày 30-4-1975, đồng bào và chiến sĩ các tỉnh Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long đã đồng loạt tiến công và nổi dậy mạnh mẽ, lần lượt giải phóng các tỉnh còn lại. Ngày 1-5-1975, toàn bộ lãnh thổ đất liền miền Nam đã được giải phóng.